Tin thế giới

Khủng hoảng năng lượng: Cơn ác mộng của châu Á

Thứ ba, 5/7/2022 | 08:47 GMT+7
Trong bối cảnh thế giới đang vật lộn với cuộc khủng hoảng năng lượng, thì tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, các quốc gia cũng đang phải đối diện với cuộc khủng hoảng năng lượng tồi tệ nhất trong nhiều năm.
 

Ảnh minh họa.
 
Bất ổn ngày càng tăng
 
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương đối diện cuộc khủng hoảng năng lượng với các cảnh tượng như ở Sri Lanka, người dân xếp hàng dài hàng km để đổ đầy một bình nhiên liệu. Hay ở Bangladesh, các cửa hàng đóng cửa lúc 8 giờ tối để bảo tồn năng lượng. Còn tại Ấn Độ và Pakistan, tình trạng mất điện buộc các trường học, các cơ sở kinh doanh phải đóng cửa và người dân sống trong cảnh ngột ngạt khi những đợt nắng nóng chết người, nhiệt độ lên tới 100 độ F (37 độ C) mà không có điều hòa.
 
Sri Lanka và Pakistan đã buộc phải thực hiện các biện pháp tuyệt vọng, bắt buộc Quỹ Tiền tệ Quốc tế giới hạn tuần làm việc ngắn hơn. Ở những nơi khác trong khu vực châu Á, các dấu hiệu bất ổn có thể ít rõ ràng hơn nhưng vẫn tiềm ẩn gây ra những hậu quả sâu rộng. Ngay cả ở các nước tương đối giàu có, như Australia, những lo ngại về kinh tế đang bắt đầu xuất hiện khi người tiêu dùng cảm thấy sức ép của các hóa đơn năng lượng cao hơn. Ngày 15/6 - lần đầu tiên - Chính phủ Australia đã đình chỉ vô thời hạn thị trường điện quốc gia trong nỗ lực hạ giá, giảm bớt áp lực lên chuỗi cung ứng năng lượng và ngăn chặn tình trạng mất điện.
 
Ấn Độ là minh họa rõ ràng nhất tại sao đây là cuộc khủng hoảng toàn cầu - chứ không phải mang tính khu vực. Ngày 28/5, nhà sản xuất than lớn thứ ba thế giới này đã phải chịu đựng tình trạng mất điện trên diện rộng trong bối cảnh nhiệt độ kỷ lục và thông báo rằng công ty than Ấn Độ sẽ nhập khẩu than lần đầu tiên kể từ năm 2015.
 
Nguyên nhân do đâu?
 
Trong khi mỗi quốc gia phải đối diện với một số hoàn cảnh riêng, tất cả đều bị ảnh hưởng bởi tác động kép của đại dịch và cuộc chiến của Nga ở Ukraine - hai sự kiện không thể lường trước đã làm bật dậy những vấn đề về năng lượng khu vực. Nguyên nhân sâu xa, các chuyên gia cho rằng, vấn đề nằm ở sự không phù hợp ngày càng tăng giữa cung và cầu. Trong vài năm qua, đại dịch khiến nhu cầu năng lượng ở mức thấp bất thường, với mức tiêu thụ điện toàn cầu giảm hơn 3% trong quý đầu tiên của năm 2020 do các nhà máy đóng cửa và các hạn chế khác khiến người lao động phải ở nhà. Nhưng giờ đây, khi các quốc gia bắt đầu đẩy lùi đại dịch, nhu cầu về nhiên liệu đang tăng vọt - và sự cạnh tranh bất ngờ đang đẩy giá than, dầu và khí đốt lên mức cao kỷ lục. Tăng tốc cho xu hướng này là cuộc chiến ở Ukraine của Nga, nhà sản xuất dầu lớn thứ ba thế giới và nhà xuất khẩu dầu thô lớn thứ hai. Với việc Mỹ và nhiều đồng minh trừng phạt dầu khí của Nga, nhiều quốc gia đã phải tranh giành để tìm các nguồn thay thế - càng làm nóng thêm cuộc cạnh tranh về nguồn cung hạn chế.
 
Ảnh hưởng nặng nề
 
Trong khi giá nhập khẩu năng lượng đã tăng đột biến trên toàn thế giới, với giá than quốc tế cao gấp 5 lần so với một năm trước và giá khí đốt tự nhiên cao gấp 10 lần so với năm ngoái, các chuyên gia cho rằng, có lý do khiến một số nền kinh tế châu Á - đặc biệt là các nước đang phát triển phụ thuộc vào nhập khẩu - đã bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Mới đây, Bộ trưởng Năng lượng Sri Lanka cho biết chỉ còn vài ngày nữa là nước này hết nhiên liệu. Cảnh báo ảm đạm đó được đưa ra khi các đường dây tại các trạm nhiên liệu ở Colombo kéo dài tới 3 km (gần 2 dặm) và tại nhiều thị trấn đã xảy ra các cuộc đụng độ giữa cảnh sát và công chúng. Các văn phòng khu vực công, trường học chính phủ và trường tư thục được chính phủ phê duyệt đã đóng cửa trong ít nhất hai tuần. Các công nhân trong khu vực công đã được yêu cầu nghỉ thứ Sáu trong ba tháng tới - với gợi ý rằng họ nên sử dụng thời gian nghỉ để tự trồng lương thực.
 
Pakistan cũng đã phải giảm tuần làm việc - từ sáu ngày xuống còn năm ngày - mặc dù điều đó có thể chỉ khiến tình hình tồi tệ hơn. Tình trạng mất điện kéo dài hàng giờ đồng hồ đã ảnh hưởng đến đất nước 220 triệu dân trong ít nhất một tháng và các trung tâm thương mại cũng như nhà hàng ở thành phố lớn nhất Pakistan là Karachi được yêu cầu đóng cửa sớm để tiết kiệm nhiên liệu. Nguồn cung năng lượng của đất nước này thấp hơn gần 5.000 MW so với nhu cầu.
 
Vấn đề khủng hoảng không chỉ xảy ra đối với các quốc gia nghèo hơn, kém phát triển hơn mà xảy ra ngay cả với Australia- quốc gia có mức giàu trung bình trên toàn cầu cao nhất thế giới tính trên một người trưởng thành. Kể từ tháng 5, Australia đã hoạt động mà không có 25% công suất năng lượng dựa trên than đá - một phần do kế hoạch ngừng hoạt động để bảo trì, nhưng cũng do gián đoạn nguồn cung và giá cả tăng cao đã gây ra tình trạng ngừng hoạt động ngoài kế hoạch. Giống như các đối tác ở Pakistan và Bangladesh, người Australia hiện đang được khuyến khích bảo tồn năng lượng với việc Bộ trưởng Năng lượng Chris Bowen gần đây đã yêu cầu các hộ gia đình ở New South Wales, bao gồm cả Sydney, không sử dụng điện trong hai giờ mỗi tối.
 
Vấn đề lớn hơn ở phía trước
 
Cách các quốc gia này phản ứng có thể gây ra một vấn đề còn lớn hơn cả việc tăng giá. Dưới áp lực của công chúng, các chính phủ và chính trị gia có thể buộc phải quay trở lại với các dạng năng lượng rẻ hơn như than đá, bất kể ảnh hưởng của biến đổi khí hậu; và có những dấu hiệu cho thấy điều này đã bắt đầu.
 
Tại Australia, Ban An ninh Năng lượng của chính phủ liên bang đã đề xuất rằng tất cả các máy phát điện, bao gồm cả các máy đốt than, phải được trả tiền để duy trì thêm công suất trong lưới điện quốc gia nhằm ngăn chặn tình trạng mất điện. Và chính quyền New South Wales đã sử dụng quyền hạn khẩn cấp để chuyển hướng than từ các mỏ trong bang tới các máy phát điện địa phương thay vì ở nước ngoài. Cả hai biện pháp đều vấp phải sự chỉ trích từ những người cáo buộc chính phủ đi ngược lại cam kết về năng lượng tái tạo. Tại Ấn Độ, quốc gia 1,3 tỷ dân, phụ thuộc vào khoảng 70% năng lượng than, quyết định tăng nhập khẩu than của New Delhi có thể còn gây ra những ảnh hưởng sâu sắc hơn đến môi trường.
 
Các nhà khoa học cho biết, việc giảm mạnh khai thác than là cần thiết để hạn chế tác động tồi tệ nhất của hiện tượng ấm lên toàn cầu, tuy nhiên điều này sẽ khó đạt được nếu không có sự mua lại của một trong những quốc gia phát thải carbon lớn nhất thế giới. Bất kỳ quốc gia nào, có thể là Ấn Độ, Đức hoặc Mỹ, nếu họ giảm giá gấp đôi đối với bất kỳ loại nhiên liệu hóa thạch nào thì sẽ tiêu tốn ngân sách carbon. Đó là một vấn đề toàn cầu.
 
Quyết định tăng nhập khẩu than của Ấn Độ có thể chỉ là một phản ứng tạm thời đối với cuộc khủng hoảng, nhưng nếu trong một hoặc hai năm tới các quốc gia tiếp tục dựa vào than thì điều này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến cuộc chiến chống lại sự nóng lên toàn cầu.
 
Theo: Báo Công thương