Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển phát biểu tại buổi làm việc.
Tham dự buổi làm việc có Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh; Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng; lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh.
Về phía EVN có ông Trần Đình Nhân – Tổng giám đốc Tập đoàn, ông Ngô Sơn Hải – Phó Tổng giám đốc Tập đoàn.
Phát biểu tại cuộc làm việc, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển đánh giá cao hiệu quả hoạt động cũng như việc bảo đảm nguồn nguyên liệu để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của Công ty Nhiệt điện Mông Dương; có nhiều đổi mới công nghệ, bước đầu có lãi và nộp vào ngân sách nhà nước. Phó Chủ tịch Quốc hội đặc biệt đánh giá cao Công ty nhiệt điện Mông Dương đã chú trọng vào yếu tố xử lý và bảo vệ môi trường, được thể hiện ở các thông số đều ở mức an toàn cho phép.
Phó Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, an ninh năng lượng là vấn đề quan trọng đặt ra đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Dự kiến từ năm 2021 - 2024, trong nước có thể sẽ thiếu điện. Do đó, Phó Chủ tịch Quốc hội đề nghị, cơ cấu các loại hình sản xuất điện phải hợp lý, trong đó nhiệt điện vẫn sẽ giữ một vai trò quan trọng.
Đối với các kiến nghị của Công ty, Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, các vấn đề sẽ được Đoàn công tác tập hợp để làm rõ trong phiên giải trình về thực trạng, giải pháp phát triển điện lực đến năm 2030 nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội sẽ được tổ chức tới đây.
Báo cáo với Đoàn công tác, đại diện Công ty Nhiệt điện Mông Dương cho biết, về sản xuất, kinh doanh, tổng sản lượng điện tính từ khi vận hành thương mại (10/10/2015) đến hết ngày 15/8/2020 có sản lượng điện đầu cực là 27,749 tỷ kWh, sản lượng điện lên lưới là 24,917 tỷ kWh.
Về bảo đảm nguyên liệu để đáp ứng sản xuất kinh doanh, theo thiết kế, đơn vị mỗi năm tiêu thụ từ 3,5 – 3,6 triệu tấn từ Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam qua đường băng tải. Mới đây để bảo đảm đủ than, Công ty đã đề xuất tỉnh Quảng Ninh cho phép nhập thêm than bằng đường biển và được đồng ý. Do đó, bảo đảm đủ than để sử dụng trong sản xuất, kinh doanh.
Về công tác vận chuyển, xử lý tro xỉ, căn cứ vào các tiêu chuẩn hiện hành, tro xỉ của đơn vị đã được Trung tâm phân tích và đo đạc môi trường Phương Nam kiểm tra, thí nghiệm và kết luận không có thành phần nguy hại. Viện Vật liệu xây dựng - Bộ Xây dựng đã cấp chứng nhận chất lượng: “Giấy chứng nhận hợp chuẩn”; “giấy chứng nhận hợp quy” cho sản phẩm tro xỉ của nhà máy đủ điều kiện làm vật liệu san lấp, vật liệu cho bê tông, vữa xây và phụ gia khoáng cho xi măng. Đối với công tác vận chuyển tro xỉ đi san lấp và tiêu thụ, đơn vị cũng đã tiến hành lắp đặt 7 bộ trộn ẩm tro xỉ để đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường. Đối với khói thải, công ty sử dụng phương pháp đốt đá vôi cùng than để khử lưu huỳnh kết hợp với hệ thống lọc bụi tĩnh điện để kiểm soát khí thải.
Giai đoạn 2016-2020, đơn vị đã thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường. Cụ thể, đã lắp đặt hoàn thiện và đưa vào vận hành hệ thống quan trắc môi trường tự động và truyền số liệu về Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ninh theo đúng yêu cầu và quy định tại Thông tư số 31/2016/TT-BTNTM và Thông tư số 24/2017/TTBTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Công ty kiến nghị cho phép được thanh toán chi phí vận chuyển tro, xỉ đi san lấp vào giá điện vì phương án giá điện hiện hữu của Công ty chưa bao gồm chi phí này (khoảng 80 tỷ đồng/năm) làm ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Hiện nay, Công ty nhiệt điện Mông Dương cũng đã trình hồ sơ xin cấp quyền sử dụng đất khu vực nhà máy chính có diện tích 2.000.844 m2. Hợp đồng xin thuê đất Công ty đã ký với Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ninh năm 2018. Hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nộp tại Trung tâm Hành chính công ngày 25/2/2020. Do đó, đơn vị kiến nghị UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt các thủ tục liên quan đến cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho công ty.
Tại buổi làm việc Tổng giám đốc EVN - Trần Đình Nhân cam kết sẽ lãnh đạo toàn Tập đoàn để đảm bảo cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đồng thời đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ nhằm đảm bảo môi trường các nhà máy điện, đáp ứng yêu cầu đặt ra.