Sử dụng Khinh khí cầu thi công kéo dây tải điện vượt Sông Cầu đoạn vào TBA 500 kV Hiệp Hòa.
Nếu lịch sử tự hào ghi rằng, biểu tượng vĩ đại ấy được dựng lên bằng bàn tay, khối óc của hàng vạn con người trên công trường không yên tiếng máy suốt hơn 2500 ngày đêm, điều đó thật chân thực nhưng vẫn chưa toàn vẹn. Vì trong suốt thời gian ấy, phía ngoài “hàng rào” công trường xây dựng TĐSL, có một đội quân hùng hậu khác âm thầm vượt vô vàn khó khăn, gian khổ, bám riết tiến độ hoàn thành các công trình đấu nối đồng bộ, sẵn sàng đón nhận dòng điện thiêng liêng từ Nhà máy TĐSL hoà vào hệ thống điện Quốc gia, đó là những người “lính truyền tải điện”.
Khó khăn chồng chất
Một ngày sau khi Tổ máy số 6 và cũng là tổ máy cuối cùng NM TĐSL hòa lưới điện Quốc gia, chúng tôi gặp vị “Tổng Tư lệnh” của dự án lưới điện đấu nối đồng bộ TĐSL - ông Trần Quốc Lẫm, PTGĐ Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT). Bên tách trà thơm tỏa khói ấm, ông chia sẻ về quá trình thực hiện dự án bằng vẻ điềm tĩnh, chân tình và đầy tâm huyết. Ông tâm sự: Phấn đấu hoàn thành các công trình đúng tiến độ Quốc hội đề ra đã là một thử thách rất lớn, phải hoàn thành trước 2 năm để theo kịp tiến độ phát điện của TĐSL là nhiệm vụ tưởng như quá sức. Căng thẳng nhất là phải có TBA và ĐZ 500 kV để kịp tiếp nhận công suất của TĐSL hòa lưới điện Quốc gia trong khi còn đó quá nhiều khó khăn, vướng mắc phải giải quyết.
Theo ông Lẫm, vấn đề nan giải đầu tiên phải kể đến là huy động vốn. Ví như công trình đường dây (ĐZ) 500 kV Sơn La – Hiệp Hòa – Nho Quan sử dụng vốn ADB với điều khoản rất chặt, yêu cầu rất cao về thủ tục giải ngân. Việc tiến độ được đẩy nhanh hơn so với kế hoạch khiến công tác huy động vốn phải có nhiều điều chỉnh linh hoạt và phải thuyết phục được ADB chấp thuận. EVNNPT đã quyết liệt chỉ đạo các đơn vị, với nhiều giải pháp khẩn trương hoàn tất các thủ tục, thi công xong đến đâu, hoàn chỉnh hồ sơ, giải ngân đến đó. Đặc biệt là vốn cho công tác đền bù giải phóng mặt bằng rất khó khăn, trong hoàn cảnh đó EVN đã tạm ứng vốn cho EVNNPT để thực hiện cho kịp tiến độ... Bên cạnh vốn, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng cũng cực kỳ “đau đầu”. Bởi đặc thù công trình truyền tải là một tuyến ĐZ đi qua nhiều tỉnh, trong khi chính sách giá đền bù, hỗ trợ đền bù mỗi địa phương một khác, nhiều đoạn ĐZ đi qua nhà thờ, nghĩa địa của bà con dân tộc thiểu số với những tập tục rất phiền hà. Các khó khăn đó đòi hỏi công tác đền bù phải hết sức linh hoạt, mềm dẻo mới có mặt bằng thi công. EVNNPT phải phối hợp rất chặt với các địa phương để tháo gỡ vướng mắc bằng nhiều cơ chế đặc thù. Điển hình như tại công trình ĐZ 500 kV Sơn La – Hiệp Hòa, đơn vị giải phóng mặt bằng phải xây dựng 21 khu tái định cư song tiến độ chậm trễ, EVNNPT đã phải cùng với chính quyền các địa phương thuê nhà ở tạm cho nhân dân, vận động nhân dân nhận tiền và tự lo chỗ để ở tạm cư...
Công tác vốn, đền bù khó là vậy, quá trình thi công cũng rất gian nan. Đơn cử như các tuyến ĐZ 500 kV chủ yếu đi qua địa hình hết sức phức tạp, đa phần là đồi núi cao, xa đường quốc lộ, địa chất phức tạp, nhiều khoảng cột vách núi dựng đứng, sỏi đá lởm chởm, chỉ cần sơ suất là có thể nguy hiểm đến tính mạng và làm hư hỏng vật tư thiết bị, nhiều vị trí phải dùng tời để vận chuyển người, vật tư thi công móng, dựng cột, kéo dây.
Sát cánh đơn vị thi công là lực lượng tư vấn giám sát (TVGS) của Công ty Truyền tải điện 1, đây là lực lượng làm công tác quản lý vận hành của các truyền tải điện khu vực được huy động tăng cường cho các dự án, vừa làm nhiệm vụ TVGS, vừa hỗ trợ các đơn vị thi công xây lắp. Anh em vất vả nhất ở điều kiện làm việc và sinh hoạt, nhà ở thì thuê ở chung với dân hoặc làm lán trại ở tạm, sinh hoạt đắt đỏ và thiếu thốn đủ thứ, căng nhất là thiếu nước sinh hoạt và rau xanh, bởi vì công trường xây dựng đường dây 500 kV Sơn La - Hoà Bình - Nho Quan và đường dây 500 kV Sơn La - Hiệp Hoà chủ yếu đi qua khu vực đồng bào các dân tộc ít người sinh sống, giao thông đi lại khó khăn. Thời gian làm việc, ăn uống, nghỉ ngơi của lực lượng TVGS hoàn toàn phụ thuộc vào thời gian làm việc của các đơn vị thi công, không kể giờ giấc, không kể ngày nghỉ, anh em phải thường xuyên ăn đồ nguội ngay tại công trường, nhiều hôm đi bộ cả nửa ngày trời lên móng cột, gặp trời đổ mưa lớn phải trú mưa đến chiều tối lại lăn lội quay về. Thời gian để về quê thăm vợ con, gia đình thì không bao giờ hẹn trước.
Nhiều “kế sách nhỏ” mang lại hiệu quả lớn
Do công trình ĐZ 500 kV Sơn La – Hiệp Hòa bị chậm tiến độ vì vướng giải phóng mặt bằng, nên EVNNPT đã quyết định đẩy nhanh tiến độ lắp MBA 500 kV thứ 2 tại Trạm 500 kV Nho Quan, để kịp giải tỏa công suất các tổ máy của TĐSL. Hay là việc vận chuyển vật tư thiết bị chưa tháo dỡ kiểm đếm từ Cảng Hải Phòng đến tận chân công trình để các bên liên quan trực tiếp kiểm đếm, kịp thời có vật tư cho đơn vị thi công, thay vì phải mở các kiện hàng trong container kiểm đếm tại cảng sau đó đóng lại mới vận chuyển đến công trình theo thông lệ. Việc làm này đã rút ngắn được thời gian hàng tháng và tiết kiệm được tiền lưu kho, lưu bãi tại Hải Phòng.
Về vốn đền bù giải phóng mặt bằng thi công ĐZ, ADB quy định đền bù một giai đoạn cho toàn bộ công trình, nghĩa là phải đền xong toàn bộ dự án (kể cả tái định cư mới cho khởi công công trình), nhưng EVNNPT đã kiên trì thuyết phục được ADB chấp thuận cho phép đền bù thành 2 giai đoạn, đền bù xong phần móng cột để đúc móng dựng cột, sau đó mới đền bù phần hành lang để thi công kéo dây sau...
Chuyện bây giờ mới kể
Công nhân EVNNPT nghiệm thu chuẩn bị đóng điện ĐZ 500 kV Sơn La – Hiệp Hòa.
Trong mạch hồi tưởng say sưa, ông Lẫm dần hé lộ những thời điểm căng thẳng, kịch tính tới phút chót trong quá trình triển khai dự án. Ông kể: Khi tổ máy số 1 TĐSL chỉ còn khoảng nửa tháng là phát điện, vẫn còn tới 15 km ĐZ 500 kV Sơn La – Hòa Bình – Nho Quan qua địa phận tỉnh Hòa Bình chưa có mặt bằng sạch để thi công. Quá nguy cấp, ông đã báo cáo Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, Giám đốc Công an tỉnh rồi trực tiếp cùng với 01 đồng chí Phó chủ tịch UBND tỉnh Hòa Bình và lãnh đạo huyện Cao Phong đến từng thôn, xã, từng gia đình để bàn bạc, vận động nhân dân và thống nhất cách giải quyết đền bù, sau đó huy động tổng lực tổ chức thi công suốt ngày đêm. Sát ngày đóng điện tổ máy số 1, vẫn còn 01 hộ gia đình cương quyết không nhận tiền đền bù, ông tức tốc cùng các cộng sự băng rừng vào vận động gia đình chấp nhận di dời và mọi việc hoàn thành vào phút chót.
Chưa hết, thời điểm trước khi đóng điện tổ máy cuối cùng (tổ máy số 6) của TĐSL cũng là những giờ phút ngộp thở. Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, hạn chót là ngày 31/3/2012 phải hoàn thành đóng điện đường dây 500 kV Sơn La – Hiệp Hòa để giải tỏa công suất của tổ máy số 6, trong khi trước đó hơn 1 tháng công tác đền bù giải phóng mặt bằng đoạn đường dây đi qua địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc còn ngổn ngang hơn 40 km chưa thi công được, ông Lẫm đã cùng ông Phó Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Phúc lặn lội trên tuyến chỉ đạo các huyện, vận động nhân dân... bằng nhiều giải pháp linh hoạt trên cơ sở giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước và nhân dân để hoàn thành giải phóng mặt bằng, đảm bảo tiến độ thi công. Rồi chuyện EVNNPT đã phải phối hợp với chính quyền địa phương bảo vệ thi công xong phần cột vị trí 11.1 tuyến ĐZ 220 kV đấu nối với TBA 500 kV Hiệp Hòa (do một số hộ dân không hợp tác), dựng cột xong đến lúc kéo dây đã phải quyết định dùng khinh khí cầu và rất may kịp tiến độ.
Ông Phan Ngọc Đào, nguyên Phó Trưởng Ban quản lý các công trình điện Miền Bắc, người trực tiếp điều hành dự án ĐZ 500 kV Sơn La – Hòa Bình – Nho Quan còn tiết lộ hai trong rất nhiều câu chuyện thú vị khiến quá trình xây dựng công trình đấu nối TĐSL nhuốm màu “huyền thoại”. Đó là câu chuyện giải phóng mặt bằng tại “thung lũng ma” cho khoảng cột 96 – 97 ĐZ 500 kV Sơn La – Hòa Bình – Nho Quan. Truyền thuyết về những chuyện ma quái nơi đây đã làm chùn chân rất nhiều cán bộ dự án, thậm chí không ít cán bộ người địa phương cũng tỏ ra e ngại phải đụng chạm đến khu vực “linh thiêng” này. Rồi chuyện chính ông Đào và anh em cán bộ, công nhân phải ngày đêm tổ chức cưa cây cao trong hành lang cho kịp tiến độ đóng điện ĐZ, trong đó gian nan nhất là thực hiện cưa cây “linh thiêng” ở “rừng ma”. Tiến độ quá gấp rút, công việc lại quá nhiều khiến ông cả tuần trời chỉ “diện” độc 1 bộ quần áo (vì lên tuyến không kịp về nhà mang quần áo), đến ngày tổ chức làm lễ gắn biển công trình “Chào mừng 1000 Thăng Long – Hà Nội”, ông mới vội ra phố huyện Mai Sơn – Hòa Bình mua quàng 1 bộ quần áo mới và vội đi về trong đêm (do khoảng néo 90 - 96 thuộc địa bàn huyện Mai Sơn hoàn thành cuối cùng) để kịp giờ dự lễ tại TBA 500 kV Nho Quan.
Có lẽ yêu cầu cao nhất, cũng là thử thách lớn nhất đối với những người xây dựng công trình lưới điện kết nối đồng bộ với nguồn điện nói chung, thủy điện nói riêng, là không cho phép để tiến độ công trình lưới điện đồng bộ hoàn thành chậm hơn tiến độ công trình nguồn. Nói cách khác, “điều cấm kị” của người lính truyền tải là để nguồn điện phải mất thời gian chờ đợi được giải phóng công suất. Vì vậy, giả sử các công trình lưới điện đồng bộ không theo kịp tiến độ của TĐSL, thì việc công trình TĐSL về đích trước 2 năm so với yêu cầu của Quốc hội sẽ vơi đi nhiều ý nghĩa. Đây chính là lý do mang đến niềm phấn khởi, tự hào lớn lao cho chủ đầu tư công trình – Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) và các nhà thầu. Thành tích ấy còn ghi vào sổ vàng truyền thống lĩnh vực truyền tải thêm một trong những trang xán lạn nhất.
Các công trình đấu nối đồng bộ TĐ Sơn La do Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) làm chủ đầu tư:
- ĐZ 500 kV Sơn La – Hòa Bình – Nho Quan với 633 vị trí, tổng chiều dài 283 km (177 km là ĐZ 2 mạch), đi qua 3 tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình;
- ĐZ 500 kV Sơn La – Hiệp Hòa 2 mạch, với 551 vị trí, tổng chiều dài 268,9 km, đi qua 17 huyện thị của 5 tỉnh Sơn La, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Bắc Giang;
- Xây dựng mới TBA 500 kV Sơn La, công suất 2 x 450 MW và ĐZ 500 kV đáu nối NMTĐ Sơn La – TBA 500 kV Sơn La;
- Xây dựng mới TBA 500 kV Hiệp Hòa, công suất 2 x 900 MW;
- Lắp thêm MBA 500 kV thứ 2, công suất 450 MW tại TBA 500 kV Nho Quan. |