Phát triển điện gió, mặt trời ở Việt Nam: Nhìn từ công tác quy hoạch

Thứ ba, 15/1/2019 | 08:37 GMT+7
Mặc dù quy hoạch có vai trò là căn cứ pháp lý để triển khai thực hiện đầu tư các dự án, tuy nhiên, các quy hoạch điện quốc gia vừa qua có thể nói chưa quan tâm thích đáng đến phát triển điện gió, điện mặt trời, việc đề ra mục tiêu, định hướng phát triển hai nguồn điện này còn quá sơ sài, chung chung, nếu không phải là mang tính "chiếu lệ", "tượng trưng", thì cũng là "chờ" để bổ sung sau. 

Phát triển điện gió, mặt trời ở Việt Nam: Nhìn từ công tác quy hoạch
Ảnh minh họa

Phát triển các nguồn điện năng lượng tái tạo có tiềm năng ở nước ta, trong đó có điện gió, điện mặt trời được Đảng, Chính phủ đặc biệt quan tâm từ năm 2007 trong "Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050" phê duyệt theo Quyết định số 1855/2007/QĐ-TTg ngày 27/12/2007 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2007 của Bộ Chính trị. Trong đó đề ra mục tiêu: "Phấn đấu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng mới và tái tạo lên khoảng 3% tổng năng lượng thương mại sơ cấp vào năm 2010; khoảng 5% vào năm 2020 và khoảng 11% vào năm 2050". Chủ trương đó phù hợp với xu hướng chung trên thế giới, nhằm hướng tới nền kinh tế xanh - các bon thấp và phát triển bền vững.
 
Trong phạm vi bài này, chúng tôi sẽ đề cập đến việc phát triển điện gió, điện mặt trời tại Việt Nam từ góc nhìn công tác quy hoạch.
 
Trong quy hoạch (QH) phát triển điện lực quốc gia (QG) giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025 theo Quyết định số 110/2007/QĐ-TTg (Quy hoạch điện 6) không đề ra mục tiêu cụ thể về phát triển điện gió, điện mặt trời mà chỉ nêu chung quy mô công suất thủy điện nhỏ và điện năng lượng tái tạo (NLTT) tăng giảm không ổn định theo từng năm trong Phụ lục Danh mục dự án, cụ thể là: năm 2012: 150 MW, 2013: 305 MW, 2014: 500 MW, 2015: 200 MW, 2016: 150 MW, 2017: 250 MW, 2018-2019: 0; 2020: 100 MW, 2021: 100 MW (miền Bắc), 2022: 250 MW (miền Bắc và miền Trung), 2023: 250 MW, 2024: 250 MW (năng lượng mới và tái tạo), 2025: 250 MW (năng lượng mới và tái tạo). Trên thực tế đó chủ yếu chỉ là quy mô công suất thủy điện nhỏ.
 
Trong QH phát triển điện lực QG giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 theo Quyết định số 1208/2011/QĐ-TTg (QH điện 7) chỉ đề ra mục tiêu cụ thể về điện gió mà không có điện mặt trời, trong đó công suất điện gió đến năm 2020 đạt khoảng 1.000 MW, năm 2030 khoảng 6.200 MW; tỷ trọng điện gió sản xuất tăng từ 0,7% năm 2020 lên 2,4% năm 2030.
 
Tuy nhiên, trong Danh mục dự án tại Phụ lục chỉ nêu chung quy mô công suất ngày càng tăng theo từng năm mà không nêu cụ thể danh mục dự án điện NLTT nói chung và điện gió, điện mặt trời nói riêng (kể cả số lượng dự án cũng không có):
 
Cụ thể, năm 2011 công suất điện gió và NLTT: 30 MW; 2012: 100 MW; 2013: 130 MW; 2014: 120 MW; 2015: 150 MW; 2016: 200 MW; 2017: 200 MW; 2018: 200 MW; 2019: 230 MW; 2020: 300 MW; 2021: 400 MW; 2022: 450 MW; 2023: 500 MW; 2024: 550 MW; 2025: 600 MW; 2026: 600 MW; 2027: 700 MW; 2028: 800 MW; 2029: 950 MW; 2030: 1.150 MW.
 
Trong khi đó, QH điện 7 có riêng 1 danh mục cụ thể các dự án thủy điện vừa và nhỏ cho giai đoạn 2011-2017 với tổng số 37 dự án vừa và 7 "chùm" dự án nhỏ với tổng công suất tổng cộng 3.087 MW, nhờ đó tạo đà cho phát triển "nhảy vọt" thủy điện vừa và nhỏ trong giai đoạn này, mặc dù hầu hết các dự án thủy điện nhỏ có quy mô công suất dưới 10 MW, thậm chí dưới 5MW - tức là bằng, hoặc nhỏ hơn quy mô công suất dự án điện gió, điện mặt trời quy mô nhỏ.
 
Cụ thể, đến tháng 9/2016 về thủy điện nhỏ: đã vận hành phát điện 245 công trình (2.373,2 MW, bình quân 9,7 MW/dự án); đang thi công xây dựng 162 dự án (2.082,16 MW, bình quân 12,85 MW/dự án); đang nghiên cứu đầu tư 230 dự án (2.275,50 MW, bình quân 9,9 MW/dự án); chưa cho phép nghiên cứu đầu tư 56 dự án (293,88 MW, bình quân 5,2 MW/dự án), đã loại bỏ 463 dự án (1.404,68 MW, bình quân 3 MW/dự án) [1].
 
Chiến lược phát triển NLTT của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (theo Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015) đề ra mục tiêu chung về sản xuất điện từ NLTT là: Tăng sản lượng điện NLTT từ khoảng 58 tỷ kWh năm 2015 (chiếm 35% tổng sản lượng điện sản xuất) lên đạt khoảng 101 tỷ kWh vào năm 2020 (chiếm 38%), khoảng 186 tỷ kWh vào năm 2030 (chiếm 32%) và khoảng 452 tỷ kWh vào năm 2050 (chiếm 43%).
 
Mục tiêu nêu trên bao gồm cả thủy điện các loại, trong khi tiềm năng thủy điện về cơ bản đã được khai thác gần đến mức giới hạn, đặc biệt vấn đề phát triển thủy điện nhỏ và vừa tại thời điểm đó đang trong quá trình thực hiện kiểm tra, rà soát theo Nghị quyết số 62/2013/QH13 của Quốc hội (khoá XIII) về tăng cường công tác quản lý QH, đầu tư xây dựng, vận hành khai thác công trình thủy điện.
 
Theo đó, sau 3 năm (từ 2013-2016) thực hiện rà soát QH theo Nghị quyết 62 của Quốc hội, Bộ Công Thương và các địa phương đã loại khỏi quy hoạch 8 dự án thủy điện (DATĐ) bậc thang (655 MW) và 463 DATĐ nhỏ (1.404,68 MW) do tác động tiêu cực lớn đối với môi trường, hiệu quả thấp, ảnh hưởng quy hoạch/dự án ưu tiên khác. Đồng thời, không xem xét quy hoạch 213 vị trí tiềm năng thủy điện (349,61MW), chưa kể có 59 dự án (421,88 MW) đang được tiếp tục rà soát về hiệu quả kinh tế và các điều kiện khác có liên quan [1].
 
Lẽ ra trong bối cảnh đó, Chiến lược phải cụ thể hóa mục tiêu theo hướng ưu tiên phát triển điện gió, điện mặt trời được coi là có tiềm năng lớn để thay thế cũng như làm cơ sở cho việc lập QH điện nhằm đáp ứng mục tiêu đề ra trong Chiến lược này là: "Phát triển và sử dụng nguồn NLTT góp phần thực hiện mục tiêu môi trường bền vững và phát triển nền kinh tế xanh".
 
Đề án Điều chỉnh QH phát triển điện lực QG giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 theo Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg ngày 18/3/2016 (QH điện 7 điều chỉnh) có đề ra mục tiêu cụ thể về phát triển điện NLTT (không kể thủy điện) nói chung và điện gió, điện mặt trời nói riêng đến năm 2030 như sau:
 
Một là: Ưu tiên phát triển nguồn NLTT cho sản xuất điện; tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn NLTT (không kể nguồn thủy điện lớn và vừa, thủy điện tích năng) đạt khoảng 7% năm 2020 và trên 10% năm 2030.
 
Hai là: Đưa tổng công suất nguồn điện gió từ mức 140 MW hiện nay lên khoảng 800 MW vào năm 2020, khoảng 2.000 MW vào năm 2025 và khoảng 6.000 MW vào năm 2030. Điện năng sản xuất từ nguồn điện gió chiếm tỷ trọng khoảng 0,8% (2,12 tỷ kWh) vào năm 2020, khoảng 1% (4 tỷ kWh) vào năm 2025 và khoảng 2,1% (12 tỷ kWh) vào năm 2030.
 
Ba là: Đưa tổng công suất nguồn điện mặt trời từ mức không đáng kể hiện nay lên khoảng 850 MW năm 2020, khoảng 4.000 MW năm 2025 và khoảng 12.000 MW năm 2030. Điện năng sản xuất từ nguồn điện mặt trời chiếm tỷ trọng khoảng 0,5% (1,3 tỷ kWh) năm 2020, khoảng 1,6% (6,4 tỷ kWh) năm 2025 và khoảng 3,3% (19 tỷ kWh) năm 2030.
 
Nhưng trong Danh mục các dự án nguồn điện tại Phụ lục mới chỉ nêu tên một số dự án điện gió, điện mặt trời đến năm 2020.
 
Cụ thể, Điện gió Khai Long - Cà Mau: 100 MW, Điện gió Bạc Liêu giai đoạn 3: 142 MW, Điện gió Sóc Trăng: 99 MW; Điện mặt trời Thiên Tân 1: 300MW, Thiên Tân 2: 400 MW và Thiên Tân 3: 300 MW. Còn lại chỉ nêu chung nguồn điện NLTT (thủy điện nhỏ, điện gió, mặt trời, sinh khối, v.v...) đến năm 2030 với quy mô công suất từng năm: năm 2016: 260 MW; 2017: 360 MW; 2018: 520 MW; 2019: 450 MW; 2020: 470 MW; 2021: 790 MW; 2022: 1.200 MW; 2023: 1.000 MW; 2024: 1.200 MW; 2025: 1.200 MW; 2026: 1.800 MW; 2026: 2.160 MW; 2027: 2.910 MW; 2028: 3.240 MW; 2029: 3.350 MW; 2030: 3.530 MW.
 
Không những không nêu danh mục mà cả số lượng dự án là bao nhiêu cũng không có, chứng tỏ con số tổng công suất điện NLTT trong QH 7 điều chỉnh (kể cả QH điện 6 và QH điện 7) chỉ ước tính từ mục tiêu đáp ứng nhu cầu mà chưa biết cụ thể ở đâu, bao nhiêu, khi nào.
 
Với danh mục như vậy thì không thể là căn cứ để các nhà đầu tư triển khai thực hiện trong thực tế, vì theo quy định tại Thông tư số 16/2017/TT-BCT "Chủ đầu tư chỉ được lập dự án đầu tư điện mặt trời có trong các quy hoạch", kể cả các dự án điện gió cũng vậy. Cho nên, mỗi dự án mới đều phải xin Bộ Công Thương để lập thủ tục bổ sung QH mới được triển khai.
 
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, các QH điện quốc gia vừa qua có thể nói chưa quan tâm thích đáng đến phát triển điện gió, điện mặt trời, việc đề ra mục tiêu, định hướng phát triển hai nguồn điện này còn quá sơ sài, chung chung, nếu không phải là mang tính "chiếu lệ", "tượng trưng", thì cũng là "chờ" để bổ sung sau, mặc dù quy hoạch có vai trò là căn cứ pháp lý để triển khai thực hiện đầu tư các dự án.
 
Về QH điện gió quy định trong Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/2011 và QH điện mặt trời quy định trong Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg ngày 11/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ thì tình hình thực hiện như sau:
 
Ngày 08/3/2013, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 06/2013/TT-BCT quy định về nội dung, trình tự, thủ tục lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch phát triển điện gió (gồm QH QG và cấp tỉnh). Tuy nhiên, nội dung QH điện gió QG quy định trong Thông tư này mới chỉ là quy định về điều tra, đánh giá tiềm năng điện gió chứ chưa phải là QH phát triển điện gió, với mục tiêu xác định rõ danh mục các dự án điện gió để làm cơ sở cấp phép đầu tư và triển khai thực hiện. Chỉ trong nội dung QH điện gió cấp tỉnh có quy định về quy hoạch khu vực cho phát triển điện gió và danh mục các dự án điện gió gồm các yêu cầu: Diện tích và ranh giới các khu vực cho phát triển điện gió; quy mô công suất của các dự án điện gió.
 
Vấn đề ở đây là trong một QH gồm cả 2 giai đoạn: giai đoạn điều tra, đánh giá tiềm năng và giai đoạn xác định danh mục dự án mà 2 giai đoạn này lại không thể tiến hành đồng thời. Như vậy, giai đoạn 2 không những phải chờ kết quả giai đoạn 1 (chí ít phải được phê duyệt kết quả) mà còn phụ thuộc vào kết quả đó ra sao, cao thấp thế nào, đồng thời không kết hợp hài hòa với các QH nguồn điện khác trong tỉnh, trong vùng miền và trên phạm vi cả nước.
 
Chính vì vậy, đến nay không những chưa có Quy hoạch điện gió quốc gia mà mới chỉ có một số quy hoạch điện gió cấp tỉnh của một số tỉnh được Bộ Công Thương phê duyệt như: Bình Thuận (2012), Ninh Thuận (2013), Sóc Trăng (2014), Quảng Trị (2015), Bến Tre (2015), Bạc Liêu (2016), Cà Mau (2016). Tuy nhiên, trong QH điện gió của các tỉnh, danh mục dự án điện gió chỉ có đến năm 2020, trong đó của một số tỉnh các dự án chỉ nêu diện tích nghiên cứu mà không có công suất dự kiến. Ví dụ như Ninh Thuận, Sóc Trăng.
 
Vấn đề nữa là, các dự án điện gió tuy đã đưa vào QH điện lực cấp tỉnh và QH điện gió cấp tỉnh nhưng chỉ khi nào được bổ sung vào QH điện QG thì mới được thực hiện và điều đó lại trải qua một quá trình thủ tục bổ sung QH, chưa kể những hệ lụy và hậu quả do việc bổ sung QH gây ra.
 
Ngày 12/9/2017, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 16/2017/TT-BCT quy định về nội dung, trình tự, thủ tục lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch phát triển điện mặt trời cấp tỉnh. Tuy nhiên, cũng giống như quy định về QH điện gió cấp tỉnh, trong nội dung QH bao gồm cả xác định tiềm năng điện mặt trời lý thuyết, kỹ thuật, kinh tế và khả năng khai thác nguồn năng lượng mặt trời của tỉnh, trong khi lẽ ra QH phải được lập trên cơ sở đã xác định rõ tiềm năng nguồn điện mặt trời kỹ thuật và kinh tế.

PGS, TS. NGUYỄN CẢNH NAM - HỘI ĐỒNG PHẢN BIỆN TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Theo: Năng lượng Việt Nam