Tin trong nước

Quy hoạch Điện VII (điều chỉnh): Thách thức nguồn vốn đầu tư

Thứ ba, 16/8/2016 | 13:41 GMT+7
Thực hiện Quy hoạch điện 7 (điều chỉnh) đứng trước nhiều thách thức, trong đó lớn nhất là vốn đầu tư phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.

Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia, điều chỉnh cho giai đoạn 2011 - 2020, có xét đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 18/3/2016. Bản quy hoạch này hướng chính sách phát triển nguồn điện trong giai đoạn tới tập trung vào “giảm công suất và số lượng các nhà máy nhiệt điện than”, “giảm bớt nhu cầu nhiên liệu hóa thạch”, “sử dụng các công nghệ tiên tiến trong nhà máy nhiệt điện (tăng hiệu suất, giảm tiêu hao nhiên liệu, giảm phát thải”, “tăng mạnh tỷ trọng năng lượng tái tạo (NLTT) trong cơ cấu nguồn điện”.

Nhìn vào cơ cấu nguồn điện trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia điều chỉnh, tỷ trọng của NLTT đã được tăng lên 37,9% tổng công suất đặt năm 2030 bao gồm cả thủy điện lớn và vừa, với năng lượng gió và mặt trời là hai nguồn NLTT được mong đợi phát triển nhất. Định hướng điều chỉnh này của Chính phủ phù hợp với xu thế chung của thế giới là phát triển năng lượng sạch và bền vững.

PGS TS Nguyễn Minh Duệ - Chủ tịch Hội đồng Khoa học - Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, cho rằng, vấn đề bây giờ là thực hiện Quy hoạch điện 7 hiệu chỉnh, có nhiều thách thức, nhưng lớn nhất là vốn đầu tư cho phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.

Theo Quy hoạch Điện 7 điều chỉnh, thì từ năm 2016 đến 2030 cần 148 tỷ USD để đầu tư phát triển NLTT, nên mỗi năm phải đầu tư khoảng 10 tỷ USD cho lĩnh vực này. So sánh với mức 5 tỷ USD của Quy hoạch điện VII, mà PGS TS Nguyễn Minh Duệ là một trong những người tham gia điều chỉnh, thì con số này đã tăng gấp hai lần. Tại sao mức đầu tư mỗi năm cho phát triển NLTT lại tăng cao như vậy sau khi hiệu chỉnh Quy hoạch Điện VII đang là điều PGS.TS Duệ quan tâm.

Cùng với đó, mức đầu tư 148 tỷ USD/năm là rất lớn. PGS. TS Duệ băn khoăn việc tìm kiếm những giải pháp có thể huy động được vốn. Bởi nếu thiếu vốn, “tính khả thi sẽ rất yếu” đối với Quy hoạch điện 7 hiệu chỉnh cũng như Chiến lược phát triển NLTT mà NLTT Chính phủ đã phê duyệt năm 2015.

Ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng, đơn vị được Bộ Công Thương giao điều chỉnh quy hoạch điện VII, thừa nhận những vấn đề PGS. TS Duệ nêu là “hóc búa’’. Việc thực hiện các quy hoạch luôn có những thách thức, mà chậm ban hành những thể chế thích hợp và đúng là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến độ thực hiện Quy hoạch điện 7 hiệu chỉnh theo hướng sạch hơn, xanh hơn và giảm bớt năng lượng hóa thạch.

Một điểm nữa, theo ông Tuấn, cơ chế hỗ trợ cho các nhà đầu tư, mà đa phần là tư nhân, phải bằng giá. Chính phủ không bỏ tiền ra để hỗ trợ, cái đấy sẽ hạch toán vào cái giá chung và người dân phải chia sẻ. Tuy nhiên, sau nhiều hội thảo về cơ chế hỗ trợ, giá điện gió có thể lên tới trên 10 cent thay vì 7,8 cent/kWh như hiện nay, hoặc giá điện mặt trời có thể lên trên 11 cent/kWh, thậm chí có thể có những cơ chế đặc biệt đối với các dự án vùng đặc thù khó khăn. “Chúng tôi kỳ vọng nó được ban hành trong năm 2015, nhưng đến giờ vẫn chưa được ban hành. Hiện rất nhiều dự án điện gió, điện mặt trời đang đợi cơ chế”, ông Tuấn cho biết.

Công nghệ, giải pháp kỹ thuật cũng là vấn đề thách thức lớn trong thực hiện Quy hoạch Điện VII điều chỉnh. Công nghệ của Việt Nam đi sau các nước tiên tiến. Hiện ở Đức đã có giải pháp cho việc đấu hàng nghìn MW vào lưới, nhưng ở nước ta, chỉ với vài trăm MW các nhà kỹ thuật đã phải đau đầu về việc tính tác động dao động của lưới. Mới đây, Cà Mau dự kiến đấu vào lưới khoảng 300 MW điện, do rất gần nhà máy, nên khi đấu vào lưới điện, nó tác động ngược trở lại nhà máy điện.

Việc vốn đầu tư thực hiện Quy hoạch Điện VII tăng lên sau điều chỉnh, Phó Viện trưởng Tuấn giải thích là do giá đồng USD bây giờ thấp hơn thời điểm 2009-2010. Cạnh đó, xuất đầu tư và giá thiết bị hầu hết đều tăng. Trước đây, khi làm nhà máy Nhiệt điện Hải Phòng, chúng ta duyệt PC chỉ 900 USD/kWh nhưng đến nay không có nhà máy nào dưới 1.800 USD. Xuất đầu tư thiết bị điện và các công trình xây dựng điện đang xu hướng đắt lên. Chẳng hạn, để sản xuất 1 MW điện, thì đầu tư nhiệt điện than là 1700-1800 USD còn với điện gió là 5 đến gần 5.000 USD vì hệ số công suất thấp. Điều này, gây khó khăn cho việc tìm kiếm các giải pháp đầu tư.

Thực ra, Chính phủ cũng thấy vốn là bài toán hóc búa nên đã đưa ra giải pháp là huy động tối đa nguồn lực trong và ngoài nước. Đó cũng là tạo cơ chế tự do hóa, tư nhân hóa tham gia vào phát triển năng lượng, đặc biệt là NLTT. Chính phủ cũng đã có những cơ chế, tránh giao thêm các công trình điện có vốn đầu tư lớn cho các tập đoàn nhà nước bởi quan ngại các tập đoàn này sẽ lại vay Ngân hàng Nhà nước hoặc dùng vốn ODA, thậm chí là vay nước ngoài nhưng do Chính phủ bảo lãnh…

Nhu cầu điện tăng nhanh, trung bình khoảng 15%/năm, để phục vụ cho phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân. Trong khi đó, các nguồn vốn từ bảo lãnh Chính phủ ngày càng hạn chế do những vấn đề liên quan đến nợ công buộc các doanh nghiệp phải tự tìm kiếm các khoản vay không bảo lãnh để phục vụ cho nhu cầu đầu tư.

Trong giai đoạn 2016 - 2020, cơ chế bảo lãnh Chính phủ sẽ thay đổi theo hướng giảm dần và tiến tới ngừng cơ chế bảo lãnh cho các doanh nghiệp nhà nước trong việc vay vốn nước ngoài trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Theo ông Đặng Quyết Tiến, Phó Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính thì những doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn vay nước ngoài vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mang lại lợi nhuận sẽ không còn được Nhà nước bảo lãnh khi vay vốn. Bộ Tài chính sẽ đánh giá toàn bộ quy trình, gồm tài chính, dòng tiền của doanh nghiệp trong ba năm hiện tại và dòng tiền mà doanh nghiệp sẽ sử dụng trong 10 - 15 năm tiếp theo, dòng vốn này sẽ thường xuyên bị kiểm soát.

Các khoản vay nước ngoài lâu nay đã khiến Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) dựa nhiều hơn vào nguồn vốn vay bảo lãnh của Chính phủ, tạo ra áp lực lớn nợ công, đồng thời là bất lợi cho chính EVN trong quá trình thu xếp vốn. Theo ông Hoàng Phương - Chuyên viên Ban Tài chính EVN, nhu cầu đầu tư của ngành Điện rất lớn, khoảng 3-4 tỷ USD/năm. EVN buộc phải tính đến vay vốn không có bảo lãnh Chính phủ do hình thức này có nhiều điều kiện mở hơn, thuận lợi hơn cho quá trình thu xếp vốn của Tập đoàn.

EVN đặt nhiều kỳ vọng vào sự đồng tình của AFD cho vay khoản vay không bảo lãnh Chính phủ để thực hiện một số dự án năng lượng tái tạo. Kỳ vọng này là có cơ sở, bởi năm 2008, EVN là một trong những doanh nghiệp đầu tiên được áp dụng hình thức vay không bảo lãnh Chính phủ của AFD cho khoản vay 5 triệu USD, để đầu tư dự án Thủy điện Huội Quảng.

Cùng cảnh “khát vốn’’, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) không thể không tính đến hình thức vay vốn này, bởi mỗi năm, tập đoàn này cần khoản vốn khoảng 1,5 tỷ USD để đầu tư phát triển ngành theo quy hoạch của Chính phủ cho 4 lĩnh vực: than, điện, khoáng sản và hóa chất. Do đó, Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) hồi tháng 3/2016 đã rất nỗ lực cho việc hoàn tất thỏa ước khoản vay trị giá 35 triệu Euro không bảo lãnh Chính phủ với TKV.

Từ năm 2008, cho vay không bảo lãnh Chính phủ trung bình chiếm trên 30% hoạt động của AFD. Cam kết của AFD trong lĩnh vực điện vượt 1,5 tỷ Euro/năm, chiếm hơn 20% tổng cam kết của AFD, vào các giai đoạn khác nhau: sản xuất, truyền tải và phân phối điện. Tại Việt Nam, AFD đã đề xuất các sản phẩm tín dụng không có bảo lãnh chính phủ cho các doanh nghiệp nhà nước có tự chủ về tài chính cao.

Tuy nhiên, vay được vốn của AFD không dễ, doanh nghiệp phải thỏa mãn 11 điều kiện của AFD, về phát triển bền vững, tự chủ trong quản lý; có cổ đông là Nhà nước, doanh nghiệp có hình ảnh tốt... Đặc biệt, giai đoạn 2016-2020, vay vốn của AFD sẽ càng khó hơn khi tổ chức này hướng đến 3 mục tiêu: ưu tiên năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng để đấu tranh chống biến đổi khí hậu; cải thiện khả năng tiếp cận với năng lượng tại các khu vực nông thôn và cận đô thị cũng như phấn đấu để chi phí năng lượng có thể tiếp cận được và nâng cao độ an toàn và tăng cường hệ thống năng lượng như truyền tải, phân phối.
NLVN