Diễn đàn năng lượng

Việt Nam cần đa dạng hoá nguồn cung để sử dụng hiệu quả năng lượng

Thứ năm, 20/6/2024 | 09:03 GMT+7
Chính phủ Việt Nam đã ban hành một số chính sách then chốt cho phát triển năng lượng bền vững, tiến đến phát thải ròng bằng không (NET ZERO) vào năm 2050 với 4 trụ cột chính, đó là “tiết kiệm năng lượng, năng lượng tái tạo (NLTT), thị trường năng lượng và biến đổi khí hậu”. 

Tại “Báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam 2024” vừa được Bộ Công Thương phối hợp với Đại sứ quán Đan Mạch công bố, các diễn giả đều nhấn mạnh tới việc triển khai có hiệu quả cùng lúc 4 trụ cột này chính là con đường nhanh nhất đưa Việt Nam tiến đến phát thải ròng bằng không (Net Zero). 

Có 2 điểm rất đáng chú ý trong “Báo cáo tổng quan ngành năng lượng Việt Nam” được Bộ Công Thương Việt Nam, Đại Đại sứ quán Đan Mạch và Cục Năng lượng Đan Mạch công bố mới đây, đó là cả “cường độ năng lượng sơ cấp” và “cường độ sử dụng năng lượng cuối cùng của Việt Nam” mặc dù đã giảm mạnh trong giai đoạn 2010-2022 (với cường độ năng lượng sơ cấp đạt 275kgOE/1.000 USD năm vào 2022, hay cường độ tiêu thụ năng lượng cuối cùng/GDP năm 2022 là 315kgOE/1.000USD, thể hiện xu hướng giảm so với mức 357kgOE/1.000USD của thời gian trước đó) nhưng vẫn cao hơn đáng kể so với các nước trong khu vực. 

Để sử dụng năng lượng hiệu quả, quá trình chuyển đổi năng lượng thành công, tiến đến phát thải ròng bằng không theo mục tiêu đề ra vào năm 2050, “Báo cáo Triển vọng Năng lượng Việt Nam 2024” khuyến nghị Việt Nam cần đa dạng hoá nguồn cung năng lượng, đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo gắn với sử dụng hiệu quả năng lượng. Đại sứ Đan Mạch Nicolai Prytz cho rằng, để trung hòa khí hậu vào năm 2050, Việt Nam cần có thêm 56 GW điện năng lượng tái tạo vào năm 2030 (bao gồm cả điện gió trên bờ, điện gió ngoài khơi và điện mặt trời).

"Việt Nam là một trong những quốc gia đưa ra cam kết mạnh mẽ về việc giảm phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Để đạt mục tiêu này đòi hỏi phải có sự cân đối hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và an sinh xã hội. Bằng cách thúc đẩy chuyển đổi năng lượng xanh ngay từ bây giờ, Việt Nam có thể giảm gánh nặng trong phát triển kinh tế trong tương lai. Việc tiếp cận các nguồn năng lượng mới trong các quyết định đầu tư là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế, tiến tới mục tiêu phát thải ròng bằng không".

Theo ông Nguyễn Tuyền Tâm - Trưởng phòng Kế hoạch - Quy hoạch, Cục Điện lực và NLTT (Bộ Công Thương), những năm gần đây Việt Nam đã có sự gia tăng đáng kể của loại hình phát điện từ NLTT (như điện gió, điện mặt trời). Tuy nhiên, đóng góp của NLTT trong tổng cung năng lượng sơ cấp cũng chưa được nhiều, một phần là do thủy điện trong giai đoạn vừa qua đã được khai thác khá nhiều và cũng không còn dư địa để tăng thêm.

"Đến năm 2022 thì cường độ năng lượng sơ cấp đạt khoảng 275 kg dầu trên 1.000 đô la - mặc dù đã giảm mạnh trong giai đoạn 2010-2022. Tuy nhiên, vẫn cao hơn đáng kể so với cả các nước khác trong khu vực với các chỉ số vẫn còn khá cao. Điều này cho thấy hiệu quả sử dụng năng lượng của Việt Nam vẫn còn thấp so với cả các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Về chỉ số thể hiện mức độ đa dạng hóa nguồn năng lượng trong tổng cung năng lượng sơ cấp thì đã giảm xuống còn 3.173. Tuy nhiên là chỉ số này của Việt Nam vẫn còn cao. Điều này cho thấy mức độ đa dạng hóa vẫn còn phụ thuộc vào một số ít loại hình năng lượng, chẳng hạn như than đá. Vì vậy là chúng ta cần phải phát triển những nguồn năng lượng tái tạo cũng như năng lượng thay thế để có thể đa dạng hóa các loại hình năng lượng trong tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp của Việt Nam".

Tiếp cận với các Báo cáo triển vọng năng lượng Việt nam từ năm 2017 đến nay, PGS. TS Phạm Hoàng Lương - Nguyên phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (ĐHBKHN), Giám đốc Viện Khoa học Công nghệ Quốc tế Việt Nam - Nhật Bản thuộc ĐHBKHN đánh giá cao các nghiên cứu của bản báo cáo mới nhất này, trong đó nhấn mạnh tới các nội dung liên quan đến chuyển dịch năng lượng xanh và các khuyến nghị cho Việt Nam.

"Các vấn đề điện khí hóa, đặc biệt là chúng ta tăng cường tỷ trọng điện khí hóa trong các khu sử dụng năng lượng cuối cùng. Ví dụ như trong công nghiệp, giao thông vận tải và ở một số lĩnh vực khác… Đó cũng là những điểm chung tôi nghĩ cũng có được sự đồng thuận. Chúng tôi đánh giá rất cao với kịch bản tăng trưởng xanh, bởi vì chúng ta đã có chiến lược tăng trưởng xanh và chúng ta lồng ghép được vấn đề chuyển dịch năng lượng trong tăng trưởng xanh thì làm cho quá trình thúc đẩy chuyển dịch năng lượng tiến hành dễ dàng hơn".

Báo cáo triển vọng năng lượng Việt Nam 2024 cũng đưa ra dự báo NLTT sẽ sớm trở nên rẻ hơn nhiên liệu hoá thạch. Với nhận định, NLTT là nguồn điện rẻ nhất trên toàn cầu và cũng sẽ sớm có khả năng như vậy ở Việt Nam, Báo cáo đưa ra khuyến nghị cần đầu tư sớm vào NLTT và tập trung vào cải thiện khung pháp lý.

Cùng với đó, Báo cáo cũng cho thấy nhu cầu năng lượng cho tăng trưởng công nghiệp sẽ tăng đáng kể, ngay cả khi sử dụng tất cả các giải pháp tiết kiệm năng lượng. Nhấn mạnh điện năng là dạng năng lượng chính phục vụ tăng trưởng công nghiệp, sinh khối đứng thứ 2 đảm bảo tính bền vững. Vì thế, cần điện hoá tất cả các lĩnh vực và sử dụng sinh khối ở những nơi cần đến năng lượng nhiệt. Cần sớm giảm sử dụng nhiên liệu hoá thạch trong tất cả các kịch bản tăng trưởng, như việc loại bỏ than khỏi các phân ngành công nghiệp mới, và việc sử dụng than trong công nghiệp gần như bị loại bỏ vào năm 2045. 

Tăng trưởng xanh giúp quá trình chuyển đổi dễ dàng hơn. Đặc biệt, tăng trưởng xanh trong các ngành công gnhieejp và dịch vụ thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh. Vì thế, cần thiết lập kịch bản tăng trưởng xanh. Chuyển dịch tăng trưởng kinh tế từ các ngành có cường độ sử dụng năng lượng cao sang các ngành có giá trị cao. Theo đó, chuyển từ tỷ trọng phát thải từ ngành công nghiệp chiếm 40% tổng phát thải sang tỷ trọng công nghiệp chiếm 30% tổng phát thải vào năm 2050 (hiện nay là 36%). Cần tập trung vào các sản phẩm có giá trị cao trong công nghiệp như chất bán dẫn, các thiết bị điện tử khác và ít tập trung vào các sản phẩm sử dụng nhiều năng lượng như phân bón, xi mắng, sắt thép, dệt may…

Trong giai đoạn 2010-2022, GDP tăng trưởng trung bình 6,1%/năm, đạt 5.545,8 triệu tỷ VNĐ vào năm 2022. Tổng nguồn cung năng lượng sơ cấp (TPES) đã tăng 5,6%/năm, đạt 98,9 tấn dầu tương đương (MTOE) vào năm 2022. Trong đó, than đạt 43,2 MTOE, chiếm tỷ trọng lớn nhất (43,7%); đứng thứ 2 là dầu đạt 27,4 MTOE chiếm 27,7%); Khí tự nhiên đạt 7,3 MTOE (chiếm 7,4%); NLTT (gồm cả thuỷ điện) đạt 21 MTOE, chiếm 21,1%. 

Kể từ năm 2015 Việt Nam đã trở thành nước nhập khẩu tịnh năng lượng. Năng lượng nhập khẩu có xu hướng tăng dần trong giai đoạn 2015-2020 và đạt mức nhập khẩu kỷ lục vào năm 2020 với 53.605 KTOE (năm 2015 nhập khẩu 17.074 KTOE). Nhập khẩu năng lượng của Việt Nam đang có xu hướng giảm dần từ sau khi đạt đỉnh nhập khẩu năm 2020. Mức độ phụ thuộc năng lượng nhập khẩu trong TPES tăng tỷ trọng từ 6,4% năm 2015 lên 47,9% vào năm 2020 và giảm xuống còn 35,4% vào năm 2022 (có nguyên nhân đến từ việc xuất khẩu năng lượng giảm đã khiến cho tỷ lệ nhập khẩu tịnh/năng lượng sơ cấp ngày càng cao). 

Đối với “cường độ sử dụng năng lượng cuối cùng của Việt Nam”: Tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng của Việt Nam (TFEC) năm 2022 đạt 71.995 KT
OE, tăng 5,4%/năm trong giai đoạn 2010-2022. Cường độ tiêu thụ năng lượng cuối cùng/GDP năm 2022 là 315kgOE/1.000USD, thể hiện xu hướng giảm trong giai đoạn 2010-2022, so với mức 357kgOE/1.000USD (trong đó, cơ cấu tiêu thụ theo ngành có thể kể đến, như: ngành công nghiệp có tỷ trọng tăng mạnh nhất, đạt 51,9% năm 2022, GTVT có đà phục hồi sự khi chịu tác động của đại dịch Covid-19, đạt 20,8% năm 2022…

 

Nguyên Long