Diễn đàn năng lượng

Cổ phiếu thường

Thứ ba, 30/6/2009 | 15:25 GMT+7
Cổ phiếu thường biểu hiện quyền sở hữu của cổ đông đối với CTCP. Dưới góc độ đó, trái chủ (người sở hữu trái phiếu) được xem như người cho vay, trong khi cổ đông sở hữu cổ phiếu thường là chủ sở hữu thực sự của công ty. Cổ phiếu thường không có thời hạn xác định, tồn tại trong suốt thời gian tồn tại của công ty. Thu nhập của cổ phiếu thường phụ thuộc vào thu nhập sau thuế, sau khi trừ đi cổ tức của cổ phần ưu đãi.

Đặc điểm của cổ phiếu thường

- Quyền yêu cầu về thu nhập: cổ đông sở hữu cổ phiếu thường có quyền yêu cầu về thu nhập sau thuế, sau khi quyền yêu cầu của trái chủ và cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi được thoả mãn. Thu nhập của cổ đông có thể bao gồm phần cổ tức trả trực tiếp hàng năm và phần lợi nhuận giữ lại để tái đầu tư của công ty. Lợi ích của cổ đông bao gồm cả phần cổ tức được phân phối từ thu nhập và cả lợi ích từ tái đầu tư. Việc tái đầu tư làm tăng giá trị của công ty, tăng khả năng thu nhập của công ty cũng như cổ tức trong tương lai. Hành động này sẽ làm tăng giá trị của cổ phiếu. Có thể nói, thu nhập của cổ đông được phân phối trực tiếp dưới dạng cổ tức, và gián tiếp thông qua phần tăng vốn đầu tư vào cổ phiếu thường.

Quyền yêu cầu về thu nhập có cả lợi thế và bất lợi đối với cổ đông. Lợi thế ở đây chính là khả năng lợi nhuận tiềm tàng không bị giới hạn. Tuy nhiên, quyền lợi của phần lớn chứng khoán ưu đãi (trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi) phải được thoả mãn, phần còn lại mới chia cho cổ phiếu thường dưới dạng cổ tức hoặc lợi nhuận tích luỹ. Vì vậy, điều bất lợi là nếu phần thu nhập của trái phiếu và cổ phiếu ưu đãi vượt quá thu nhập của công ty, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường sẽ chẳng nhận được gì cả.

- Quyền yêu cầu về tài sản: cổ phiếu thường có quyền yêu cầu về tài sản còn lại khi công ty phá sản và cũng có quyền đòi hỏi tài sản sau cùng trong trường hợp công ty giải thể. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường chỉ nhận tài sản sau khi trái chủ và cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi đã nhận đủ tài sản của họ. Đặc biệt, trong trường hợp phá sản công ty xảy ra, quyền yêu cầu về tài sản của cổ đông sở hữu cổ phiếu thường nói chung không được thoả mãn.

- Quyền bầu cử: chỉ có cổ đông sở hữu cổ phiếu thường mới có quyền tham dự và biểu quyết tại ĐHCĐ. Cổ phiếu thường không chỉ có quyền bầu cử HĐQT, mà còn có quyền chấp thuận mọi sự thay đổi trong đặc quyền của công ty. Sự thay đổi các đặc quyền cơ bản có thể liên quan đến sự cho phép phát hành cổ phiếu mới, thậm chí đề xuất sáp nhập, giải thể công ty.

- Quyền mua trước: quyền mua trước cho phép cổ đông sở hữu cổ phiếu thường duy trì tỷ lệ cân đối về sở hữu công ty. Quyền mua trước cổ phiếu nhằm bảo vệ quyền kiểm soát và bảo vệ giá trị tài sản của chủ sở hữu không bị thay đổi khi công ty phát hành thêm cổ phiếu. Do hiệu ứng pha loãng khi phát hành thêm cổ phiếu, giá cổ phiếu bị sụt giảm. Tổn thất của NĐT được xác định bằng chênh lệch giá giữa giá cổ phiếu trước và sau phát hành phải được đền bù bằng quyền mua cổ phiếu.

- Nghĩa vụ giới hạn: mặc dù cổ đông sở hữu cổ phiếu thường là chủ sở hữu thực sự của công ty, trách nhiệm của họ trong trường hợp công ty bị phá sản chỉ giới hạn ở khối lượng đầu tư của họ. Lợi ích của đặc điểm này là làm giảm tối đa rủi ro cho NĐT.

- Các quyền lợi khác: một số quyền lợi khác của cổ đông sở hữu cổ phiếu thường như: quyền được tự do chuyển nhượng cổ phiếu (ngoại trừ trường hợp đặc biệt theo luật định); quyền được nhận thông tin từ tổ chức phát hành; quyền được bảo vệ giá cổ phiếu…

Theo: ĐTCKO