Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
Phóng viên đã phỏng vấn ông Vũ Xuân Khu - Phó Giám đốc Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia (A0).
PV: Tại cuộc họp của Chính phủ chiều 22/4 vừa qua khi quyết định nới lỏng giãn cách xã hội, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định “Phòng, chống dịch tốt nhưng phải tạo năng lượng cho dòng chảy hàng hóa, khôi phục sản xuất kinh doanh, dịch vụ, giải quyết việc làm, bảo đảm phát triển kinh tế- xã hội. Đây là yêu cầu bức thiết hiện nay…”. Xin được hỏi ông, EVN triển khai các giải pháp nào để đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội trong thời gian tới?
Ông Vũ Xuân Khu: Công tác đảm bảo điện năm 2020 và đặc biệt mùa khô này được EVN nhận ra từ rất sớm và mọi công tác chuẩn bị đã được tiến hành ngay từ các tháng cuối năm 2019. Và tại thời điểm đó đã cho thấy việc đảm bảo cung cấp năm 2020 sẽ rất nhiều khó khăn, cụ thể lượng nước tích trong các hồ thủy điện thiếu hụt nhiều, chỉ tích khoảng 65% dung tích hữu ích các hồ chứa và thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2019. Các nguồn than, khí là các nguồn nhiên liệu chính phục vụ cho phát điện cũng gặp khó khăn, trong đó nguồn khí suy giảm mạnh.
Trước tình hình khó khăn về cân đối cung cầu, ngày từ cuối năm 2019, EVN đã huy động một lượng lớn các nguồn dầu đắt tiền để giảm bớt căng thẳng cung cấp điện.
Để đảm bảo cung cấp điện thời gian tới nhằm đáp ứng đủ điện cho sản xuất phát triển và sinh hoạt của nhân dân, EVN đã và tiếp tục thực hiện một số giải pháp chính như sau:
(i Huy động tối ưu các nguồn thủy điện, nhằm có đủ công suất và điện năm để đáp ứng cho đến cuối mùa khô và huy động để đáp ứng yêu cầu nước hạ du ở các nhà máy thủy điện; (ii) Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với TKV, TĐB và PVN trong việc đảm bảo cung cấp nhiên liệu than, khí cho các nhà máy điện, đồng thời phối để các NMĐ thuộc Tập đoàn vận hành ổn định hơn nữa trong thời gian tới. (iii) EVN đã chỉ đạo các đơn vị trực thuộc bám sát và tạo mọi điều kiện để đưa các trình nguồn điện mới vào vận hành để tăng nguồn cung cho HTĐ quốc gia; (iv) Chỉ đạo EVNNPT và các đơn vị liên quan khẩn trương đóng điện các công trình truyền tải điện quan trong sớm vào vận hành. (v) Tranh thủ bố trí các công tác nguồn điện, lưới điện trong quý 1 năm nay để có độ sẵn sàng cao nhất trong các tháng cao điểm mùa nắng nóng sắp tới. (vi) Tiếp tục tuyên truyền tới người sử dụng điện sử dụng điện tiết kiệm hiệu quả.
PV: Thưa ông, theo thông tin chúng tôi nhận được từ Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia thì tình trạng khô hạn đang diễn ra ở hầu khắp các tỉnh, thành trong cả nước. Từ tháng 1 đến tháng 7-2020, nguồn nước trên các sông suối thuộc các khu vực, Bắc Bộ, miền Trung, Tây Nguyên tiếp tục thiếu hụt từ 20% đến 60% so với trung bình nhiều năm (TBNN).Vậy, cụ thể tình hình thực tế tại các hồ thủy điện hiện nay ra sao, thưa ông?
Ông Vũ Xuân Khu: Do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, lượng nước về các hồ thủy điện trong mùa lũ 2019 chỉ đạt xấp xỉ 69% so với trung bình nhiều năm. Mặc dù đã chủ động khai thác cao các nguồn nhiệt điện than, khí và cả nguồn dầu đắt tiền để tích nước sớm. Nhưng đến cuối năm 2019, tổng lượng nước tích được trong các hồ chứa chỉ đạt 24.2 tỷ m3 (quy ra điện tương đương 10.2 tỷ kWh), thiếu hụt 11.4 tỷ m3 so với mực nước dâng bình thường (tương đương 4.4 tỷ kWh).
Bước sang năm 2020, diễn biến nước về các hồ trên hệ thống cũng không có nhiều cải thiện, lượng nước về các hồ cũng chỉ khoảng 70% so với giá trị trung bình nhiều năm. Đến nay, một số các hồ thủy điện chính có mức nước thấp hiện nay như Hòa bình có mực nước là 88,5 m cách mực nước chết chỉ 8.5 m. Hồ IaLy có mực nước 598,3 m cách mực nước chết là 8,3 m. Hồ Đại Ninh có mực nước 863,5 m, các mực nước chết 3,5 m.
Ngay từ đầu năm EVN đã huy động tối đa có thể các nguồn nhiệt điện than, khí và huy động cao các nguồn điện dầu đắt tiền. Các nhà máy thủy điện huy động tiết kiệm chủ yếu để đáp ứng yêu cầu nước hạ du. Hơn nữa như cầu phụ tải giảm do ảnh hưởng dịch bệnh Covid 19 nên tính đến ngày 27/04/2020, tổng lượng nước tích được trong các hồ thủy điện lớn trên hệ thống đã cải thiện và tích được là 14,5 triệu m3 (tương đương với sản lượng điện có thể khai thác là 5.79 tỷ kWh cao hơn 1.7 tỷ kWh so với kế hoạch Bộ Công Thương) và cũng xấp xỉ lượng nước tích được cùng kỳ năm 2019.
Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
PV: Trong khi thủy điện vẫn đang là nguồn điện chiếm công suất lớn trong hệ thống điện quốc gia. Với số liệu như ông vừa thông tin có ảnh hưởng như thế nào tới việc cung cấp điện từ các nhà máy thủy điện cho hệ thống điện quốc gia cũng như đảm bảo điện cho hệ thống trong thời gian cao điểm mùa khô - khi mà nguồn nước từ nhiều hồ thủy điện còn một nhiệm vụ hết sức quan trọng nữa là đảm bảo nước hạ du phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân, thưa ông?
Ông Vũ Xuân Khu: Hiện nay tỷ trọng thủy điện vẫn chiếm khoảng 30% về mặt công suất trên hệ thống điện, do đó vai trò của thủy điện là rất quan trọng đặc biệt trong những thời điểm nắng nóng, phụ tải tăng cao. Với tình hình thủy văn như hiện tại, đối với các hồ có lượng nước còn lại trong hồ thấp, EVN vẫn tiếp tục kiến nghị hạn chế huy động, chỉ huy động theo yêu cầu nước hạ du thực tế để giữ nước. Riêng hồ Đại Ninh sẽ rất khó khăn (chỉ còn cách 3.5 m nữa là đến mực nước chết) do lượng nước còn trong hồ rất ít và lưu lượng nước về cũng rất thấp, chủ yếu khai thác để đáp ứng yêu cầu nước của Tỉnh Bình Thuận. Tuy nhiên xét về tổng thể toàn hệ thống với tình hình thủy văn hiện tại, HTĐ Quốc gia vẫn đảm bảo đáp ứng đủ điện cho phát triển kinh tế của đất nước và sinh hoạt của nhân dân, đồng thời đáp yêu cầu cơ bản nước hạ du ở các địa phương.
PV: Được biết, ngay trong quý 1 - mặc dù sản lượng điện thương mại thấp hơn cùng kỳ, nhưng việc huy động điện từ nhiệt điện than lên tới gần 60% công suất hệ thống điện. Trong thời gian tới, việc huy động các nguồn điện sẽ thế nào - nếu khô hạn tiếp tục diễn biến như hiện nay và có thể nặng nề hơn như dự báo?
Ông Vũ Xuân Khu: Đối với hệ thống điện quốc gia hiện nay, tỷ trọng các nhà máy nhiệt điện than đang lớn nhất kể cả về công suất lẫn sản lượng và tỷ trọng này sẽ tiếp tục duy trì trong thời gian tới.
Từ đầu năm đến nay, tổng sản lượng thuỷ điện theo nước về chỉ đạt 6,61 tỷ kWh, thấp hơn 3 tỷ so với kế hoạch năm. Để đảm bảo cung ứng điện, trong 4 tháng đầu năm, các nguồn nhiệt điện than, khí đã được huy động phát rất cao.
Theo tính toán của Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia (A0), trong các tháng 4, 5, công suất nguồn của hệ thống đảm bảo đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ điện bởi lúc này, các nhà máy nhiệt điện than có độ khả dụng cao (do không bố trí sửa chữa), thủy điện vẫn đáp ứng được huy động.
Tuy nhiên, trong thời gian tới vào các tháng 6, 7, 8, nếu khô hạn tiếp tục diễn biến theo chiều hướng bất lợi có thể nặng nề hơn dự báo thì khi các hồ thủy điện ở mức nước thấp, và các tổ máy nhiệt điện than, tuabin khí bắt đầu phải tách ra sửa chữa, bảo dưỡng sau một thời gian vận hành căng thẳng mùa khô, hệ thống điện có thể sẽ căng về công suất khả dụng
PV: Việc huy động như vậy liệu có xảy ra những rủi ro không?
Ông Vũ Xuân Khu: Những nguy cơ có thể kể đến với chế độ huy động cao các nguồn nhiệt điện trong giai đoạn tới bao gồm:
Các tổ máy nhiệt điện sau thời gian vận hành liên tục trong suốt mùa khô nếu không được tách ra sửa chữa kịp thời sẽ có nguy cơ gặp sự cố rất cao trong quá trình vận hành. Khi nắng nóng liên tục, trên diện rộng, đặc biệt khu vực miền Bắc thì độ ổn định của các nhà máy nhiệt điện sẽ bị suy giảm do vận hành trong điều kiện khắc nghiệt, điều kiện làm mát các thiết bị không đảm bảo do đó thường xuyên bị sự cố, suy giảm công suất. Đánh giá của năm 2019, tổng công suất suy giảm do điều kiện làm mát không đảm bảo đã lên đến hơn 2000 MW, ảnh hưởng lớn đến khả năng cung ứng điện. Rủi ro về nguồn cung nhiên liệu cho các nhà máy tuabin khí khi lượng khí cấp năm 2020 theo kế hoạch ở mức tương đối thấp so với các năm trước đây. Hệ thống cung cấp khí đã có thời gian vận hành dài, thường xuyên gặp sự cố. Rủi ro về cung cấp than, nếu tình hình dịch Covid-19 không được cải thiện trên phạm vi toàn cầu, một số quốc gia như Nam Phi, Úc, Indonesia là nguồn cung than chính cho các nhà máy sử dụng than nhập của EVN tiếp tục bị ảnh hưởng thì khả năng có thể dẫn đến gián đoạn cung cấp than cho các nhà máy.
Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
PV: Hiện nay các nguồn điện từ năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời trong hệ thống điện quốc gia đã khá cao (khoảng 12%). Các nguồn điện này được huy động như thế nào?
Ông Vũ Xuân Khu: Đến hết thời điểm hiện tại đã có 92 nhà máy mặt trời với tổng công suất 4864 MW và 11 nhà máy điện gió với tổng công suất 411 MW đưa vào vận hành. Tổng công suất các nguồn NLTT đã vào vận hành khoảng 5275 MW. Trong đó các NMĐ mặt trời tập trung tại các tỉnh như Ninh Thuận (1144 MW), Bình Thuận (901 MW), Tây Ninh (608 MW), Phú Yên (375 MW).
Về mặt sản lượng điện, sau 3 tháng đầu năm 2020, sản lượng các nguồn năng lượng tái tạo đạt khoảng 4.6% sản lượng toàn hệ thống. Trong điều kiện các nguồn năng lượng sơ cấp trong nước như thủy điện vừa và lớn, than, dầu, khí ngày càng cạn kiệt thì việc đưa các nguồn năng lượng tái tạo vào vận hành là xu hướng tất yếu và cũng là nhiệm vụ cần triển khai trong quá trình thực hiện Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015.
Thời gian vừa qua EVN đã nỗ lực, phối hợp với các địa phương và chủ đầu tư các dự án đảm bảo tiến độ xây dựng các đường dây, trạm biến áp nhằm giải tỏa hết công suất các nhà máy này. Nhìn chung, phần lớn các nhà máy đều đã được vận hành đã tối đa theo thiết kế, tuy nhiên các địa bàn có tỷ lệ NLTT tập trung cao, khi các điều kiện quang năng tốt, ở một vài thời điểm việc các nhà máy đồng loạt phát cao có thể gây quá tải lưới điện khu vực.
PV: EVN có những giải pháp gì để đảm bảo điện trong bối cảnh khô hạn diễn biến phức tạp như hiện nay?
Ông Vũ Xuân Khu: Mặc dù phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong công tác vận hành, nhưng EVN vẫn nỗ lực không ngừng để đảm bảo hệ thống điện quốc gia vận hành an toàn, liên tục, đảm bảo cung cấp đủ điện cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Để thực hiện được việc này, ngay từ cuối năm 2019, EVN đã thực hiện đồng bộ hàng loạt các giải pháp nhằm nâng cao độ tin cậy cung cấp điện như: Huy động tối đa các nguồn nhiệt điện than, tuabin khí, huy động cao nguồn chạy dầu ngay từ tháng 10/2019 để cố gắng tích nước các hồ thủy điện cao nhất có thể. Sử dụng tiết kiệm nước, giữ nước cao nhất có thể đối với các hồ thủy điện, nhằm có đủ nước để đáp ứng các nhu cầu của hệ thống điện cũng như nhu cầu sử dụng nước ở phía hạ du trong thời kỳ cao điểm của mùa khô. Tập trung bố trí các công tác sửa chữa nguồn điện, lưới điện ngay từ cuối năm 2019 và trong quý I/2020, để đảm bảo từ quý II/2020 hệ thống điện có độ sẵn sàng cao nhất. Chỉ đạo quyết liệt các đơn vị trực thuộc, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị ngoài ngành, tạo mọi điều kiện để đưa các nguồn điện mới vào vận hành đúng tiến độ. Phối hợp chặt chẽ với Tập đoàn Than khoáng sản, Tổng công ty than Đông Bắc nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong việc cấp than cho các nhà máy điện. Phối hợp chặt chẽ với Tổng công ty Khí Việt Nam và đề nghị PVGas đảm bảo các nguồn khí hiện hữu vận hành ổn định, hạn chế để xảy ra sự cố dài ngày, đồng thời sớm đưa các mỏ khí mới vào vận hành đáp ứng nhu cầu khí cho phát điện.
Như vậy, với sự chuẩn bị kỹ lưỡng ngay từ đầu năm, EVN đã và đang đảm bảo hệ thống điện quốc gia vận hành an toàn liên tục và cung cấp đủ điện cho phát triển kinh tế của đất nước.
PV: Khuyến nghị từ phía EVN để đảm bảo điện an toàn, liên tục, thông suốt trong bối cảnh dịch bệnh cũng như khan hiến không chỉ nguồn nước mà nhiều nguồn năng lượng sơ cấp như than, như khí cũng đang gặp nhiều khó khăn?
Ông Vũ Xuân Khu: Chúng tôi hy vọng các bộ ngành, địa phương và người dân cùng chung tay với EVN trong việc đảm bảo cung ứng điện mùa nắng nóng năm nay cũng như trong toàn bộ năm 2020 và xa hơn.
Đối với Bộ Công thương, chúng tôi kiến nghị Bộ chỉ đạo các đơn vị như Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam đảm bảo và ưu tiên cung cấp đủ khí, than cho sản xuất điện.
Chúng tôi kiến nghị các địa phương có phương án sử dụng nước hiệu quả, hạn chế các yêu cầu xả nước hạ du vượt quá nhu cầu thực tế nhằm tránh lãng phí nguồn nước, đảm bảo đủ nước cho phát điện đến cuối mùa khô cũng như tích nước hiệu quả trong mùa lũ.
Đối với người dân, chúng tôi mong muốn người dân cùng chung tay với EVN bằng cách sử dụng tiết kiệm điện. Chỉ bằng những hành động đơn giản như tắt các thiết bị khi không sử dụng, tận dụng ánh sáng tự nhiên, sử dụng hợp lý các thiết bị nóng /lạnh, sử dụng các thiết bị tiết kiệm năng lượng, bạn sẽ tiết kiệm được chi phí cho chính gia đình bạn, giảm được chi phí sản xuất điện cho ngành điện, đồng thời sẽ góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe cho toàn xã hội.
Theo tính toán của Trung tâm Ðiều độ Hệ thống điện Quốc gia (A0), tổng sản lượng thủy điện toàn hệ thống 6 tháng mùa khô năm 2020 sẽ giảm 4,2 tỷ kWh so với kế hoạch. Điều này không chỉ tạo áp lực lớn cho hệ thống điện mà việc đáp ứng các yêu cầu cấp nước ở vùng hạ du và mực nước tối thiểu theo quy trình điều tiết cũng rất khó khăn.
Ðể đảm bảo hài hòa lợi ích giữa cấp nước cho hạ du theo quy trình liên hồ chứa và đảm bảo đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, EVN đã kiến nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét cho phép tiếp tục duy trì mực nước tối thiểu thấp hơn quy định của quy trình vận hành liên hồ chứa đối với một số hồ thủy điện; đồng thời cho phép vận hành các hồ chứa, ưu tiên đáp ứng các ràng buộc kĩ thuật của hệ thống điện, điều chỉnh lượng nước cấp cho hạ du phù hợp với nhu cầu thực tế của các địa phương và có thể thấp hơn so với quy định tại một số hồ thủy điện đang gặp khó khăn về nguồn nước...
Năm 2020, được dự báo sẽ xảy ra hạn hán nghiêm trọng. EVN đang triển khai phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành liên quan, các địa phương, có giải pháp cân đối, hài hòa, vận hành các hồ chứa đảm bảo được đa mục tiêu, vừa cấp nước cho hạ du, vừa hoàn thành nhiệm vụ phát điện. Đặc biệt là đối với những khu vực thiếu nước nghiêm trọng như Ðà Nẵng, Ninh Thuận, Bình Thuận...
Tính đến nay, tổng dung tích hữu ích các hồ thủy điện chỉ là 24,3 tỷ m3, thiếu khoảng 11,38 tỷ m3 so với mực nước dâng bình thường (tương đương thiếu 4,58 tỷ kWh).
|