Sức sống lưới điện Việt Nam

Thứ ba, 23/1/2007 | 00:00 GMT+7

Ngày 15/8/1955, Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Cục Điện lực Việt Nam và bổ nhiệm đồng chí Hồ Quý Diện làm Cục Trưởng. Ngày ấy, ngành Điện tiếp quản một cơ sở vật chất nghèo nàn chỉ có 5 nhà máy điện công suất nhỏ, công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kỹ, tổng công suất 31,5 MW, tổng sản lượng điện đạt khoảng 50 triệu kWh/năm. Các nhà máy điện vận hành riêng rẽ, lưới điện cũ nát, hình thành theo từng khu vực độc lập, cấp điện với điện áp truyền tải cao nhất là 30,5 kV. Các trạm phân phối điện phân bố thưa thớt, công suất nhỏ, sơ đồ cung cấp điện rất thô sơ, kém an toàn. Điện chủ yếu để phục vụ cho thắp sáng và tiêu dùng ở khu vực đô thị.

 

                                              

Hơn 52 năm trôi qua, các thế hệ ngành Điện Việt Nam đã từng bước tiếp cận và làm chủ công nghệ, thiết bị để xây dựng, hình thành và phát triển hệ thống điện Việt Nam thống nhất trên toàn quốc, từng bước hoàn chỉnh theo hướng độc lập, tự chủ và có trình độ công nghệ ngày càng hiện đại với trục xương sống là đường dây tải điện 500 kV Bắc - Nam. Đến năm 2006, EVN đã xây dựng xong đường dây 500 kV mạch 2 từ Trạm Pleiku - Thường Tín và hàng loạt các đường dây 500 kV, 220 kV như: Đường dây 500 kV Phú Mỹ - Nhà Bè - Phú Lâm,... Tổng công suất lắp đặt toàn bộ hệ thống nguồn đạt gần 12.000 MW, với nhiều nhà máy điện lớn như: Hoà Bình, Phả Lại 1 & 2, Phú Mỹ, Trị An, Bà Rịa, Ialy, Hàm Thuận - Đa Mi,... Điện năng sản xuất năm 2007 ước tính đạt trên 69,5 tỷ kWh, tăng 1.390 lần so với năm 1954 và gấp 23 lần so với năm 1975. Từ chỗ đội ngũ những người làm nghề Điện chỉ được tham gia ở những vị trí lao động giản đơn (thời Pháp thuộc), đến nay, ngành Điện Việt Nam đã hoàn toàn làm chủ cả về quản lý và công nghệ, có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao, được đào tạo chính quy, đa ngành, khai thác có hiệu quả hệ thống điện phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước: từ nghiên cứu, khảo sát thiết kế, xây dựng đến vận hành, chế tạo thiết bị thay thế và kinh doanh điện với nhiều chuyên gia giỏi có đẳng cấp cao được thế giới thừa nhận. Dòng điện đất nước đã phát triển và vươn tới mọi miền Tổ quốc với 100% số tỉnh, thành phố; 100% số huyện; 96,32% số xã và 91,6% số hộ dân trong toàn quốc đã có điện lưới quốc gia. Nhịp độ tăng trưởng điện sản xuất đạt tỷ lệ 15,3 năm.

 Thực hiện đổi mới quản lý, tăng thêm quyền hạn và trách nhiệm cho các cơ sở, sắp xếp lại tổ chức để nâng cao hiệu quả sản xuất, ngành Điện đã đáp ứng được cơ bản yêu cầu về điện của nền kinh tế và đời sống nhân dân. Đó là những minh chứng phản ánh một cách sinh động tầm vóc của Điện lực Việt Nam - một trong những ngành kinh tế - kỹ thuật đang phát triển một cách vững vàng và năng động.

Nhìn lại những năm 1990, sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, (1986) tình hình kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến vượt bậc. Tốc độ phát triển kinh tế khá cao kéo theo nhu cầu về điện cũng tăng trưởng mạnh, đặc biệt ở các tỉnh phía Nam, nhưng khả năng xây dựng nguồn điện ở miền Nam không có điều kiện thực hiện nhanh được. Trong lúc đó ở miền Bắc, Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình có tổng công suất 1.920 MW được tiến hành xây dựng, các tổ máy lần lượt được đưa vào vận hành. Nguồn thuỷ điện lớn, nhiên liệu sẵn có đã đáp ứng đủ nhu cầu điện cho hệ thống điện Miền Bắc và còn dư thừa công suất, điện năng, có thể hỗ trợ cho miền Trung và miền Nam. Vì vậy, cuối những năm 1980, ngay trong quá trình hợp tác với Liên Xô để lập Tổng sơ đồ phát triển điện giai đoạn I (1981-1985), ngành Điện đã có ý định xây dựng đường dây 500 kV cấp điện cho miền Trung, đồng thời tiến hành xem xét dự án xây dựng Thuỷ điện Yaly cùng với xây dựng đường dây 500 kV từ Yaly vào miền Nam (lúc đó chưa có ý định xây dựng đường dây 500 kV Bắc -  Nam).

Những năm đầu thập niên 1990, tình trạng thiếu điện ở miền Trung, miền Nam xảy ra ngày càng trầm trọng, có tuần phải cắt điện từ 3 đến 4 ngày. Trước tình hình đó, Bộ Năng lượng đã chỉ thị cho Công ty Tư vấn xây dựng điện 1 (lúc đó là Công ty Khảo sát thiết kế điện 1) lập gấp phương án đầu tư xây dựng đường dây 500 kV hợp nhất hệ thống điện Việt Nam. Dự án nêu trên đã được Bộ Năng lượng phê duyệt ngày 16/04/1990. Trong văn bản phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ đã ấn định thời gian phải hoàn thành xây dựng công trình là 02 năm. Vì vậy, Công ty tư vấn đã gấp rút chuẩn bị để kịp thời khởi công công trình vào ngày 05/04/1992. Ngay từ năm 1991, Công ty đã chủ động cùng Công ty Tư vấn xây dựng điện 2 (Công ty khảo sát thiết kế điện 2), Công ty Tư vấn xây dựng điện 4 (Phân viện thiết kế Nha Trang) tung ra nhiều đoàn quân khảo sát trên toàn tuyến từ Hoà Bình đến Phú Lâm để có số liệu địa chất, địa hình cho công tác thiết kế. Song song với công tác thiết kế, Công ty Tư vấn xây dựng điện 1 hoàn thiện tiêu chuẩn ngành “Đường dây dẫn điện trên không 18TCN-03-92” (dùng cho đường dây dẫn diện 500 kV). Trong quá trình thi công, Công ty còn tiến hành tính toán phương án hoà đồng bộ để chuẩn bị cho đóng điện đường dây; tính toán các chế độ điện áp khi đóng điện từng cung đoạn và lập chế độ hoà đồng bộ tại Đà Nẵng và Pleiku cho từng thời điểm cụ thể. Ngoài ra, để đề phòng các trường hợp xấu nhất có thể xảy ra khi liên kết hệ thống 500 kV với hệ thống 220 kV của các Công ty điện lực, Công ty đã lập đề án ghép nối và kiến nghị xây dựng một số đoạn đường dây 220 kV, chỉnh định các thông số rơ le bảo vệ lưới điện 220 kV để đảm bảo phù hợp với cấu hình của HTĐ 3 miền cũng như thời gian xử lý sự cố lưới điện 220 kV nhanh nhất. Công trình đã hoàn thành đúng tiến độ, đóng điện  ngày 27/05/1994.

Việc hoàn thành đóng điện đường dây 500 kV Bắc - Nam đã giải quyết việc thiếu điện cho miền Trung, miền Nam từ cuối năm 1994 và chỉ sau 03 năm vận hành, công trình đã hoàn vốn đầu tư. (Từ năm 1995 - 2001 công trình 500 kV Bắc - Nam đã tải vào miền Trung, miền Nam hơn 15 tỷ và tải ra hơn 3 tỷ kWh điện, làm lợi hàng ngàn tỷ đồng). Công trình không những giúp cho các ngành kinh tế quốc dân phát triển và góp phần đưa điện về vùng sâu, vùng xa, đẩy nhanh tốc độ cung cấp điện cho số lượng hộ dân, thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo và đóng vai trò quan trọng trong sự liên kết hệ thống, tăng cường ổn định, độ tin cậy và giúp cho việc khai thác tối ưu các nguồn điện năng, tăng tính kinh tế hệ thống. Đồng thời, những đề xuất khoa học, công nghệ có tính sáng tạo trong khi thiết kế và thi công đường dây 500 kV Bắc - Nam là bài học quý giá cho công tác thiết kế và thi công các công trình có cấp điện áp 500 kV sau này. Việc xây dựng đường dây 500 kV Bắc - Nam không những đã hoàn chỉnh và hiện đại hoá hệ thống điện Việt Nam mà còn nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công nhân từ khâu đầu tư, khảo sát thiết kế, thi công và quản lý vận hành.

Đến nay, ngành Điện đã và đang đầu tư xây dựng hàng loạt các nhà máy nhiệt điện, thuỷ điện như: Thuỷ điện Sơn La, Thuỷ điện Tuyên Quang, Nhiệt điện Hải Phòng…, cùng hệ thống đường dây: Đường dây 500 kV Thường Tín - Quảng Ninh, đường dây 500 kV Hoà Bình - Sơn La,... để đảm bảo nhu cầu cung cấp phụ tải ngày càng cao, phục vụ cho sự nghiệp phát triển hiện đại hoá công nghiệp, nông nghiệp nước ta. 

Trong tương lai, để đảm bảo cân bằng nguồn nhiên liệu cung cấp cho các nhà máy điện, ngành Điện sẽ tiếp tục đầu tư các nguồn năng lượng mới như: Năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng địa nhiệt,...nhất là nhà máy điện nguyên tử nhằm đảm bảo cung cấp điện một cách tin cậy và góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế đất nước. Đồng thời, tập trung xây dựng và cải tạo lưới truyền tải tốt hơn nữa để có khả năng truyền tải với công suất lớn và đặc biệt là đảm bảo tính an toàn cao.

Theo Tạp chí Điện lực số 12 - 2006