Thủy điện đảm bảo an ninh năng lượng
Theo Bộ Công Thương, Việt Nam có hơn 3.450 hệ thống sông, suối lớn nhỏ, tiềm năng thủy điện về lý thuyết khá lớn với tổng công suất khoảng 35.000 MW và điện lượng khoảng 300 tỷ kWh/năm, trong đó miền Bắc chiếm khoảng 60%, miền Trung chiếm khoảng 27% và miền Nam chiếm khoảng 13%. Tuy nhiên, nếu tính toán về mức độ khả thi, có thể khai thác được khoảng 26.000 MW (khoảng 100 tỷ kWh/năm), phân bố theo các hệ thống sông như sau: sông Đà 33%, sông Đồng Nai 13,8%, sông Sê San 10%, sông Vu Gia - Thu Bồn 5,2%, sông Srêpốk 4%, sông Lô-Gâm-Chảy 3,8%, sông Ba 2,4%, sông Cả 1,9% và các sông khác 22,3%. Đây là tài nguyên quý giá của quốc gia, là nguồn năng lượng sạch, có khả năng tái tạo, cần được khai thác hợp lý.
Về cơ bản, quy hoạch thủy điện trên cả nước đã được lập và phê duyệt, làm cơ sở xem xét cho triển khai thực hiện các dự án đầu tư. Theo các quy hoạch đã được phê duyệt, cả nước hiện có 815 DATĐ có tổng Nlm = 24.324,3 MW. Trong đó, đã vận hành phát điện 268 dự án (14.240,5 MW); đang thi công xây dựng 205 dự án (6.198,8 MW), dự kiến đưa vào vận hành khai thác từ nay đến năm 2017, tổng dung tích phòng lũ thường xuyên cho hạ du Wpl = 10,51 tỷ m3.
Đối với quy hoạch bậc thang thủy điện (trên dòng chính các sông lớn, chủ yếu có quy mô công suất > 30 MW), đến nay, các cấp có thẩm quyền đã phê duyệt quy hoạch hoặc cho phép đầu tư xây dựng tổng số 113 DATĐ bậc thang có tổng Nlm = 18.006 MW và tổng Wpl = 10,51 tỷ m3. Theo đánh giá bước đầu, chất lượng của các quy hoạch này cơ bản đáp ứng yêu cầu. Đến nay, hầu hết dự án thuộc quy hoạch đã và đang được đầu tư xây dựng: đã đưa vào vận hành khai thác 56 dự án (đã phát điện 12.498,1 MW và đang lắp máy để đưa vào vận hành 27 MW trong năm 2013) với tổng Wpl = 9,35 tỷ m3; đang thi công xây dựng 31 dự án (3.856,7 MW và Wpl = 0,66 tỷ m3), dự kiến đưa vào vận hành khai thác từ nay đến năm 2017; đang nghiên cứu đầu tư 17 dự án (1082,3 MW). Các nhà máy thủy điện (NMTĐ) nêu trên đã và đang góp phần đáng kể trong việc cung cấp điện năng, điều tiết bổ sung lưu lượng về mùa kiệt và cắt giảm lũ có hiệu quả cho hạ du; một số dự án đã và đang được nghiên cứu điều chỉnh nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm thiểu tác động tiêu cực đối với MT-XH hoặc để phù hợp với các quy hoạch/dự án ưu tiên khác.
Như vậy có thể nói, việc đầu tư xây dựng các dự án thủy điện đã và đang góp phần quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng nhằm thúc đẩy phát triển KT-XH của cả nước theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Trong năm 2012, các NMTĐ đã đóng góp tới 48,26% công suất (13000 MW) và 43,9% (53 tỷ kWWh) điện lượng cho hệ thống điện. Đây là nguồn năng lượng sạch, có khả năng tái tạo, giá thành rẻ hơn so với các nguồn điện khác. Quá trình đầu tư xây dựng và vận hành khai thác đã tạo nhiều việc làm cho các lực lượng lao động trong cả nước. Việc hình thành các hồ chứa thủy điện cũng góp phần quan trọng trong việc chủ động tích trữ để xả nước cho nhu cầu dân sinh, nông nghiệp và tham gia cắt giảm lũ cho hạ du, cải tạo môi trường, phát triển du lịch sinh thái, nuôi trồng thủy sản, giao thông thủy...
Các hồ thủy điện với tổng dung tích hàng chục tỷ m3 đã đóng vai trò quan trọng trong việc chủ động tích trữ để bổ sung lưu lượng, cấp nước về mùa kiệt và cắt giảm lũ phục vụ sinh hoạt, sản xuất, bảo vệ môi trường...cho hạ du. Theo đánh giá của Bộ TN&MT, các hồ thủy điện sẽ chiếm khoảng 86% tổng dung tích của các hồ chứa trong cả nước (56 tỷ m3 trong tổng số 65 tỷ m3). Đây là nguồn dung tích trữ nước cực kỳ quan trọng, trong những năm qua đã góp phần quan trọng bảo đảm an ninh nguồn nước, đóng vai trò chủ chốt, đảm bảo chủ động điều tiết cấp nước và chống, giảm lũ cho hạ du đặc biệt là khu vực miền Bắc.
Đẩy mạnh cải cách thị trường điện
Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng cho hay: Năng lượng hiện là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Tại Việt Nam, mức tiêu thụ năng lượng năm 2013 khoảng 57 triệu tấn dầu qui đổi (Mtoe) và dự báo mức tiêu thụ năng lượng sẽ tiếp tục gia tăng ở mức cao, khoảng 7% mỗi năm trong giai đoạn 2010-2020 và xấp xỉ 5% trong giai đoạn 2020-2030. Trong đó, tốc độ tăng trưởng nhu cầu điện, mặc dù có chậm lại do ảnh hưởng chung của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, dự báo sẽ đạt mức tăng trưởng từ 12%-15% trong giai đoạn 2011-2020 và khoảng 10% trong giai đoạn 2021-2030.
Việt Nam có nguồn tài nguyên năng lượng phong phú như than, dầu khí, thủy điện và năng lượng tái tạo. Hiện tại, các nguồn năng lượng hóa thạch đang ngày càng cạn kiệt, các nguồn thủy điện lớn đã được khai thác gần hết. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu điện ngày một gia tăng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững, Việt Nam đang thực hiện các biện pháp mang tính chiến lược, bao gồm: tăng cường đầu tư các cơ sở sản xuất năng lượng; giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch bằng cách đa dạng hóa việc khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng; tập trung khai thác các nguồn năng lượng tái tạo sẵn có và phát triển điện hạt nhân; tích cực tìm kiếm và gia tăng trữ lượng các nguồn dầu, khí thiên nhiên cũng như đẩy mạnh việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, ứng dụng công nghệ phát thải thấp… Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cân đối sử dụng các nguồn tài nguyên, trong đó có việc khai thác hiệu quả thủy điện và cải cách thị trường điện.
Theo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020, có xét tới năm 2030, Việt Nam sẽ tiếp tục ưu tiên phát triển các nguồn thủy điện, đưa tổng công suất các nguồn thủy điện từ 14.000MW hiện nay lên 21.300MW vào năm 2020; nghiên cứu đưa nhà máy thủy điện tích năng vào vận hành phù hợp với sự phát triển của hệ thống điện nhằm nâng cao hiệu quả và tối ưu vận hành của hệ thống. Năm 2020, thủy điện tích năng dự kiến có tổng công suất 2.400MW, nâng lên 5.700 vào năm 2030. Hiện nay, phần lớn các nguồn năng lượng thủy điện cơ bản đã được khai thác hết, Việt Nam đang đẩy mạnh khai thác các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ; tối ưu vận hành các nhà máy thủy điện trên cùng bậc thang thủy điện để đạt tối đa khả năng khai thác. Bên cạnh đó, Việt Nam từng bước phát triển thị trường điện cạnh tranh, đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh điện.
“Công tác vận hành hệ thống điện sẽ phải đối mặt với những khó khăn và thách thức liên quan tới công tác quản lý, phối hợp hài hòa và vận hành tối ưu các nhà máy thủy điện, đặc biệt là các nhà máy thủy điện trên cùng bậc thang nhằm đáp ứng các mục tiêu phát điện, tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, phòng chống lũ hạ du đồng thời đáp ứng các tiêu chí liên quan tới môi trường.” – Ông Cao Quốc Hưng nhận định.
Ông Cao Quốc Hưng cho hay, để đảm bảo phát triển thủy điện một cách bền vững, phát triển đi đôi với bảo vệ môi trường – xã hội, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ ngành, các nhà máy thủy điện vận hành theo đúng quy trình được phê duyệt, bảo đảm hiệu quả phát điện, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước của hạ du, cắt giảm lũ, hạn chế các tác động tiêu cực đối với hạ du; nghiên cứu ban hành quy định về giám sát thực hiện công tác bảo vệ và giảm thiểu tác động tiêu cực đối với môi trường, quy định về dòng chảy tối thiểu ở hạ du các hồ chứa, quy trình vận hành liên hồ chứa về mùa kiệt trên các lưu vực sông, tăng cường kiểm tra công tác quản lý vận hành các CTTĐ đảm bảo an toàn cho công trình, người dân.
Ảnh 1, đại diện: Hội thảo
Nhiều công trình thủy điện do EVN quản lý có đóng góp quan trọng cho an ninh năng lượng. Ảnh: Ngọc Thọ