Sự kiện

Hồ thủy điện không gây lũ lụt nặng thêm cho hạ du

Thứ ba, 26/11/2013 | 09:01 GMT+7
Do ảnh hưởng của hoàn lưu áp thấp nhiệt đới kết hợp với không khí lạnh tăng cường, từ ngày 14 đến ngày 17-1, ở các tỉnh từ Quảng Trị đến Ninh Thuận và khu vực bắc Tây Nguyên có mưa to đến rất to. Tổng lượng mưa ở các tỉnh Quảng Trị, từ Phú Yên đến Ninh Thuận, Gia Lai, Kon Tum phổ biến từ 200 đến 400mm; các tỉnh từ Thừa Thiên Huế đến Bình Định từ 300-500mm; riêng tỉnh Quảng Ngãi từ 400-600mm.
Một số nơi có mưa lớn hơn ở Quảng Ngãi có lượng mưa rất lớn như: Minh Long (979mm), An Chỉ (830mm), Ba Tơ (962mm), Giá Vực (684mm), Sơn Giang (663mm)...có ý kiến cho rằng, việc xả nước của các Nhà máy thủy điện trong thời gian này đã gây lên lũ cho Miền Trung, để làm rõ nguyên nhân, bàn  giải pháp khắc phục, ngày 25-11, tại Hà Nội, Bộ Công Thương đã tổ chức cuộc họp kiểm điểm tình hình xả lũ của các Nhà máy thủy điện tại Miền Trung, có sự tham gia của lãnh đạo các tỉnh bị ảnh hưởng từ đợt lũ vừa qua.

Đảm bảo chức năng cắt giảm lũ

 

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi Phạm Trường Thọ nhận định, các hồ chứa trên địa bàn tỉnh không xả lũ hay gây lũ nhân tạo khiến lũ chồng lũ trong đợt mưa lũ tại miền Trung vừa qua.

Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi có 3 hồ thủy điện đang khai thác và chuẩn bị khai thác gồm Hà Nang, Đăkdrinh, Nước Trong đều để tràn tự do với mức 0,6-0,8m và không xả lũ. Trong thời gian mưa lớn, hầu hết các hồ đều để tràn tự do, không xả nước để gây nên lũ nhân tạo, lũ chồng lũ. Tình trạng nước dâng đột ngột là do mưa quá lớn lại diễn ra trong thời gian ngắn.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Nguyễn Ngọc Quang cho biết, thời điểm xảy ra mưa lớn, hầu hết 73 hồ thủy lợi của tỉnh đều cho chảy qua tràn tự do, 3 hồ cho xả tràn xả sâu với lưu lượng nhỏ. Đặc biệt, đối với 4 hồ thủy điện, tỉnh Quảng Nam giám sát chặt chẽ, có đường theo dõi quá trình lũ của từng hồ. Trong các thời điểm, mức nước xả đều thấp hơn mức nước đến các hồ. Cụ thể, lúc đỉnh điểm nước về hồ Đăk Mi 4 đạt 4.360 m3/giây, mức xả là 3.900 m3/giây, hồ A Vương 898 m3/giây, mức xả 871 m3/giây, hồ Sông Tranh 2 đạt 7.056 m3/giây xả 2.531 m3/giây.

Tại tỉnh Gia Lai, theo số liệu thống kê, lượng mưa vùng An Khê gấp đôi lượng mưa đợt lũ lịch sử năm 1981, trên sông Ba tại An Khê lại xuất hiện lũ lịch sử , vượt đỉnh lũ năm 1981 là 1,67m, lũ lên nhanh với biên độ rất lớn, tới 89,01m, thời gian lũ lên chỉ 16 giờ với cường suất lũ lên lớn nhất 60cm/h. Do vậy, nếu không có tác động của hồ An Khê thì với lượng mưa như vậy, lũ cũng sẽ xảy ra ở mức tương tự và cao hơn.

Các cơ quan chuyên môn đánh giá hầu hết các hồ khu vực Quảng Nam, Đà Nẵng đều thực hiện được chức năng cắt lũ, không làm nặng thêm tình trạng lũ cho vùng hạ du trong thời gian mưa lũ vừa qua và không vi phạm quy trình vận hành hồ chứa.

Nhìn lại cơn lũ lịch sử

Ông Bùi Minh Tăng- Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung Ương cho biết, nếu so sánh với trận mưa cuối tháng 9-2009 (từ 28-30/9), cho thấy, lượng mưa trên lưu vực sông Trà Khúc và sông Vệ đo được tại các trạm thì trận mưa từ ngày 14 đến 17-11 vừa qua lớn hơn từ 300 đến 500mm; cường độ mưa ở các trạm thượng lưu cao hơn rất nhiều so với trận mưa năm 2009, từ 183-251mm. Hoặc so sánh với trận mưa năm 1999 (từ ngày 1 đến 5-12), cho thấy, mặc dù tổng lượng  mưa năm 1999 cao hơn nhiều so với trận mưa năm vừa qua, nhưng trận mưa kéo dài 5 ngày (trong khi đó, trận mưa tháng 11-2013 chỉ kéo dài 3 ngày), nên cường độ mưa ở vùng thượng lưu các sông năm 2013 đều cao hơn trận mưa năm 1999 từ 20-200mm.

Tại tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, chỉ trong vòng 3 ngày, tổng lượng mưa đo được nhiều nơi bằng gần 80% tổng lượng mưa cả năm. Cường độ mưa rất lớn và phần lớn đều cao hơn so với những trận lũ đặc biệt lớn, lũ lịch sử đã xảy ra.

Chính vì mưa lớn, nên trên các sông từ Quảng Trị đến Ninh Thuận, Gia Lai, Kon Tum đã xuất hiện một đợt lũ lớn. Biên độ lũ lên ở thượng nguồn các sống từ 6-12m, hạ lưu từ 2,5 -6,5m; đỉnh lũ trên phần lớn các sông từ Quảng Nam đến Bình Định, Gia Lai, Kon Tum đạt mức báo động 3 và trên báo động 3 từ 0,1-3,65m. Riêng các sông ở Quảng Ngãi, sông Kôn, thượng nguồn sông Ba tại An Khê đã xuất hiện lũ lịch sử; các sông từ Quảng Trị đến Thừa Thiên Huế và Phú Yên đạt mức báo động 1 và 2, có nơi trên báo động 2. Lũ lên nhanh, tập trung trong thời gian ngắn với cường suất lũ lên lớn (cường suất lớn nhất đạt từ 0,5-2,09m/giờ), vì thế, phần lớn các hồ chứa (cả thủy điện và thủy lợi) từ Thừa Thiên Huế đến Phú yên, Ninh Thuận và khu vực Bắc Tây Nguyên đã vượt mức dâng bình thường và phải xả tràn.

Nhìn lại trận lũ lịch sử năm 1999, đây là một trận lũ khủng khiếp chưa từng gặp, lượng mưa từ trong 5 ngày phổ biến từ 600-900mm những nơi mưa lớn như Thạch Hãn lên tới 1.346mm, Tiên Phước 1.453mm, Hiệp Đức 1.370mm, Cao Lâu 1.211mm, đặc biệt A Lưới 2.271mm, Huế 2.288mm, trong đó lượng mưa một ngày tới 1.384mm là lượng mưa lớn chưa từng thấy trong chuỗi số liệu đo đạc hơn 100 năm ở nước ta, gây nên lũ lịch sử trên toàn vùng : ngập lụt lớn, chia cắt giữa các vùng, 20 huyện thị xã ngập lụt sâu từ 2-4m nước, khiến 100% nhà cửa ở Thừa Thiên Huế nhấn chìm trong biển nước. Sông Hương đổi dòng mở ra hai cửa thoát lũ ra biển là cửa Hòa Duân và Vĩnh Hải là hiện tượng chưa từng xảy ra. Thời gian này, ở Miền Trung chỉ có duy nhất một công trình thủy điện là Yaly ở Gia Lai.

Trước tình hình thiên tai, mưa lũ ngày càng cực đoan và khó lường hiện nay, điều quan trọng cần tập trung nhất là cần rà soát, nâng cao hơn nữa các công việc chuẩn bị phòng chống tại các công trình thủy lợi, thủy điện, từ việc dự báo, rà soát quy hoạch xây dựng các khu dân cư, công trình vùng lũ phù hợp hơn tình trạng biến đổi khí hậu, quản lý, xây dựng và tu bổ các hồ chứa, bổ sung hệ thống quan trắc. Đặc biệt, việc thông tin, phương thức thông báo lũ cần cải tiển để kịp thời thông báo cho người dân./
 
Thanh Mai/ICon.com.vn