Những năm tháng chiến tranh ác liệt, vừa lao động vừa chiến đấu anh luôn ý thức vươn lên. Với tính năng động, tự chủ, ham học hỏi, hiểu biết, anh nhanh chóng được lãnh đạo giao phụ trách tổ sửa chữa tua bin. Không dừng ở đó, năm 1978 vừa làm vừa học đến năm 1984 anh tốt nghiệp ĐH chuyên ngành hệ thống điện trường ĐH Bách Khoa. Năm 1987, anh được điều động về Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình với trọng trách quyền quản đốc phân xưởng máy. Bước đầu vô cùng khó khăn từ sửa chữa tua bin nhiệt điện sang sữa chữa các thiết bị của nhà máy thuỷ điện. Chính những khó khăn đó càng làm cho con người ham học hỏi, ham hiểu biết này thanh chóng làm chủ được thiết bị công đoạn anh quản lý.
Năm 1994, toàn bộ công nghệ sửa chữa tua bin anh đã làm chủ được Anh đề xuất thử nghiệm đổi chủng loại que hàn để hàn xâm thực cánh tua bin và cánh hướng nước. Kết quả khi thay đổi chủng loại que hàn thì sau 2 chu kỳ đại tu mới phải hàn. Đề tài này là đề tài nghiên cứu giảm xâm thực cánh tuốc bin. Các dụng cụ sửa chữa chuyên dùng anh mày mò nghiên cứu để người thợ đỡ vất vả như dụng cụ tháo chốt cánh hướng, chế tạo hệ thống truyền dẫn cáp để sử dụng tời điện... Với ổ hướng tua bin, nhiệt độ xéc-men có lúc lên đến 60oC. Câu hỏi làm sao hạ được nhiệt độ này cứ ám ảnh trong đầu anh. Gần 10 năm nghiên cứu anh nhận ra do diện tích truyền nhiệt và tốc độ nước làm mát nhỏ, anh đã thiết kế bộ làm mát kiểu mới thay đổi nguyên lý nghịch đảo để dầu đi ngoài, nước đi trong và đặc biệt hơn về kết cấu hình hộp không phải hình trụ. Anh Quang đã thiết kế tận dụng tối đa không gian còn lại phù hợp với không gian thực tế mà vẫn tăng được công suất nhiệt, tăng hiệu suất truyền nhiệt đủ kích thước để lắp đặt vào thiết bị, đủ trọng lượng để tiện lợi cho công việc sửa chữa, lắp ráp ở vị trí hẹp. Phương án thí nghiệm đã được Hội đồng khoa học cấp cơ sở (Hội đồng khoa học nhà máy) khảo sát, đánh giá rồi gửi về khoa Nhiệt lạnh trường ĐH Bách Khoa xem xét từng chi tiết và những công thức tính toán của anh trong từng bản vẽ đã được trưởng Bách Khoa công nhận. Giám đốc nhà máy cho đặt hàng chế tạo 12 bộ theo các bản vẽ thiết kế, lắp đặt 1 bộ làm mát thiết kế mới theo sơ đồ thí nghiệm trong đại tu máy 8 vào tháng 4/2003. So sánh chỉ số nhiệt độ của 2 kiểu làm mát cũ và mới đạt hiệu quả kinh tế cao, nhiệt độ giảm 5 -10oC, kéo dài tuổi thọ của các chi tiết máy vùng nắp tua bin, làm chậm sự ăn mòn do bị ô xy hoá. Sau khi kết quả thử nghiệm ở tổ máy 8, Giám đốc nhà máy đã quyết định đặt hàng chế tạo để thay thế 7 tổ máy còn lại. Với sáng chế này anh đã làm lợi nhiều tỷ đồng. Năm nay anh đã ở tuổi 57, anh mong muốn những kinh nghiệm thực tế, những kiến thức và công nghệ sửa chữa tua bin của mình truyền đạt lại cho các thế hệ đang công tác và sau này. Từ suy nghĩ đó, anh đã soạn thảo và được phòng Kế hoạch kỹ thuật nhà máy kiểm tra và Giám đốc cho ban hành cuốn sách cẩm nang kỹ thuật “Sửa chữa tua bin thuỷ lực''. Đây là cuốn sách quý không những là giáo trình cho công nhân sửa chữa tua bin học tập mà có thể cho các nhà máy thuỷ điện tham khảo.
Trong cuộc sống anh sống bình dị, khiêm nhường, giúp đỡ mọi người, anh sống trong căn hộ tập thể nhỏ nhưng không ngày nào không đầy ắp tiếng cười, những cuộc trao đổi và giải quyết những tồn tại của tua bin thủy lực. Con người của anh là con người của công việc, của sự đam mê tìm tòi, sáng tạo.
Theo Bản tin CĐ T8/07