Sự kiện

Từ một quyết định lịch sử

Thứ hai, 27/4/2015 | 08:49 GMT+7
Như một sự ngẫu nhiên, tháng 5-1994, đường dây 500kV mạch 1 đưa vào vận hành vào đúng dịp cả dân tộc Việt Nam thành kính kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ (1954-1994), đưa điện từ Miền Bắc vào “chi viện” cho Miền Nam và Miền Trung khi ấy đang đương đầu với những cơn khát điện triền miên. 


Công nhân Công ty Truyền tải Điện 4 kiểm tra và bảo dưỡng tuyến đường dây 500kV Nhà Bè - Cai Lây - Ô Môn. Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn

Mười năm sau, đường dây 500kV mạch 2 được đưa vào vận hành đúng dịp kỷ niệm ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-2005) giải quyết tình trạng thiếu điện ở Miền Bắc trong thời gian từ năm 2005-2008 và cũng sau 10 năm, vào dịp kỷ niệm ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-2014), đường dây 500kV mạch 3 đóng điện thành công đưa vào vận hành giải quyết tình trạng thiếu điện ở Miền Nam. Hơn 20 năm, Hệ thống tải điện 500kV Bắc-Nam đã âm thầm làm việc, ngày càng phát huy khả năng to lớn và mang lại nhiều hiệu quả.
 
Bản lĩnh người thợ điện
 
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, nền kinh tế được cơ cấu lại, do nhiều nguyên nhân, phân bố nguồn điện không tương ứng với nhu cầu điện ở từng miền. Sự mất cân bằng ngày càng lớn hơn khi ở Miền Bắc nhu cầu sử dụng điện thấp, thì mỗi năm lại có thêm một vài tổ máy của Nhà máy thủy điện Hòa Bình đi vào vận hành. Trước tình hình đó, một số tổ chức hữu quan có văn bản trình Chính phủ xin xuất khẩu điện sang Trung Quốc mỗi năm khoảng 2 tỷ kWh, cũng có ý kiến đề xuất nên hoãn lắp đặt một số tổ máy của Thủy điện Hòa Bình để tăng cường nguồn điện cho Miền Nam.
 
Tình trạng thiếu điện ở  Miền Nam ngày càng gay gắt, ngay tại TP Hồ Chí Minh, vào mùa khô phải luân phiên cắt điện tới 5 lần mỗi tuần. Miền Trung  cũng  rơi vào tình trạng “đói điện”. Toàn miền chủ yếu được cấp điện bằng các nguồn điện nhỏ, rải rác; một phần được cấp điện từ các hệ thống điện Bắc và Nam bằng những đường dây dài quá tiêu chuẩn nên chất lượng điện áp rất thấp. 
 
Để giải quyết điện cho Miền Nam và Miền Trung lúc đó chỉ có 2 giải pháp, một là, xây lắp gấp những tổ máy tuabin khí chu trình đơn, dùng dầu DO, giá thành không dưới 1100đ/kWh, trong đó chủ yếu là chi phí nhiên liệu. Với nhu cầu vài ba tỷ kWh một năm, khoản lỗ của ngành điện sẽ rất lớn. Điều không thể chấp nhận trong cơ chế kinh tế mới. Hai là, xây dựng hệ thống tải điện 500kV Bắc-Nam tận dụng nguồn thủy điện và nhiệt điện than ở Miền Bắc. Giải pháp này chỉ có ý nghĩa nếu “cướp” được thời gian, khi phụ tải điện Miền Bắc còn thấp hơn khả năng nguồn điện. Thời cơ này là có hạn vì nhu cầu điện của Miền Bắc cũng ngày càng tăng trong khi nguồn điện không được bổ sung thêm.
 
Xuất phát từ hoàn cảnh trên và căn cứ vào những tính toán của Bộ Năng lượng, Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt đã quyết định xây dựng hệ thống tải điện 500kV Bắc-Nam trong thời gian 2 năm. Quyết định táo bạo này đã gây xôn xao dư luận trong và ngoài nước. Bên cạnh niềm phấn khởi về sự phát triển vượt bậc của ngành điện, niềm hy vọng về thoát khỏi cảnh thiếu điện là những mối hoài nghi về phương tiện kỹ thuật, sự mạo hiểm về thời gian và nguồn vốn…
Không chờ cho sự ngổn ngang của dư luận lắng xuống, công trình đã được khởi công vào ngày 5-4-1992.
 
Dư luận dù khác nhau nhưng tính tất yếu của công trình khá rõ ràng qua những yêu cầu: Với quyết định xây dựng Nhà máy thủy điện Yaly, việc xây dựng đoạn đường dây 500kV Pleiku-Phú Lâm cũng là điều đương nhiên trong tương lai. Ở đây, công trình này đã được đưa vào vận hành sớm khoảng 4 năm so với thời điểm Yaly chạy tổ máy đầu tiên. Nếu so với độ dài đoạn Hòa Bình-Đà Nẵng-Pleiku dài 259km để tạo được mối liên hệ Bắc-Nam là chi phí xứng đáng phải trả. Mặt khác, như một thông lệ của nhiều nước, hệ thống điện hợp nhất là một trong những cơ sở hạ tầng thường tạo ra điều kiện phát huy tối ưu các nguồn năng lượng của một quốc gia.
 
Song hành với dư luận xã hội theo những chiều hướng khác nhau, công trình đã được tiến hành với nhịp độ chưa từng có ở mọi địa điểm, mọi công đoạn, từ những công việc sử dụng nhiều lao động cơ bắp đến những công việc kỹ thuật phức tạp và tỉ mỉ.
 
Chính xác 2 năm sau ngày khởi công, vào ngày 5-4-1994, toàn bộ đường dây, phần 1 của các trạm biến áp 500kV, phần lớn thiết bị của Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Quốc gia và của hệ thống thông tin đã được giao cho bên vận hành thực hiện các thí nghiệm dưới điện áp, chuẩn bị cho công việc khởi động toàn Hệ thống tải điện 500kV. Công việc được tiến hành khẩn trương và chính xác, thí nghiệm hòa điện đã thành công vào ngày 27-5-1994 trước sự chứng kiến của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, đúng như kế hoạch dự định.
 
Hệ thống tải điện  500kV Bắc-Nam đã phát huy ngay vai trò của mình trong hệ thống điện lực. Điện năng cung cấp cho Miền Nam và Miền Trung đã được truyền tải qua hệ thống này, theo đó, năm 1994 là 988GWh; năm 1995 là 2,813 GWh. Riêng trạm biến áp 500kV Phú Lâm, năm 1995 đã nhận 2005 GWh, nhiều hơn điện năng phát trong cùng năm của hai nhà máy thủy điện Trị An và Thác Mơ cộng lại.
 
Tình trạng đói điện đã được chấm dứt. Điện năng cung cấp cho Miền Trung tăng thêm 43%, chất lượng điện áp được cải thiện rõ rệt. Hệ thống tải điện 500kV Bắc-Nam đã đáp ứng 30% nhu cầu điện năng của Miền Nam. Vào mùa khô, tỉ trọng này lên tới 40%. Nhờ có Hệ thống tải điện 500kV, ngành điện lực đã có khả năng đáp ứng được tốc độ tăng trưởng phụ tải nhanh chóng của Hệ thống điện Miền Nam bằng nguồn điện có giá thành thấp hơn. 
 
Ở nước ta, cơ cấu nguồn các miền rất khác nhau. Ở Miền Nam, các nhà máy nhiệt điện dùng dầu FO và các nhà máy tuabin khí dùng dầu DO và khí chiếm tỷ lệ quan trọng đặc biệt trong mùa khô. Nguồn điện ở Miền Bắc gồm các nhà máy thủy điện và các nhà máy nhiệt điện than có giá thành thấp hơn các nguồn điện dùng dầu. Mặc dù, các nhà máy thủy điện có ở cả 3 miền nhưng cao điểm lũ lại khác nhau từ 4 đến 8 tuần. Hệ thống tải điện 500kV Bắc-Nam đã tạo điều kiện khai thác các nhà máy điện  với hiệu quả kinh tế  toàn hệ thống cao hơn hẳn so với các hệ thống điện miền riêng biệt trước đây. Tổng chi phí nhiên liệu đã giảm rõ rệt so với giai đoạn chưa có  hệ thống điện hợp nhất. Tỷ lệ nguồn điện dùng nhiên liệu lỏng so với tổng sản lượng điện nhận của Miền Nam và Miền Trung đã giảm từ 37% năm 1993 xuống 16,6% năm 1995.
 
Nhờ có Hệ thống tải điện 500kV Bắc-Nam, năng lực của các nhà máy điện Miền Bắc lúc bấy giờ đã sớm được phát huy. So sánh sản lượng điện năm 1995 và năm 1993 cho thấy, các nhà máy nhiệt điện than tăng 2,62 lần; Thủy điện Hòa Bình tăng 1,35 lần. Có nhiều yếu tố tác động vào sự gia tăng trên nhưng trong đó yếu tố có Hệ thống tải điện 500kV là quan trọng nhất.
 
Nhìn nhận một cách khách quan, cho thấy, việc đưa Hệ thống tải điện 500kV Bắc-Nam vào vận hành không chỉ tiếp thêm sức mạnh phát triển kinh tế-xã hội cho Miền Trung và Miền Nam mà còn thổi một luồng sinh khí mới cho các nhà máy điện ở Miền Bắc và các mỏ cung cấp than thời bấy giờ. Việc xây dựng và đưa vào vận hành thành công Hệ thống tải điện 500kV Bắc-Nam còn là một bước trưởng thành quan trọng của ngành Điện lực Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu, khảo sát, thiết kế, xây dựng, quản lý vận hành và hợp tác quốc tế.
 
Chứng minh khả năng tự cường
 

Công nhân Công ty Truyền tải Điện 4 kiểm tra và bảo dưỡng tuyến đường dây 500kV Nhà Bè - Cai Lây - Ô Môn. Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
 
Theo dự báo, nhu cầu sử dụng điện của các tỉnh Miền Bắc từ năm 2005 tăng trưởng rất cao, thời điểm cao nhất, Miền Bắc sẽ thiếu khoảng 600MW. Việc gấp rút xây dựng và đưa vào vận hành đường dây 500kV mạch 2 là một chủ trương đúng đắn của Chính phủ mà người đứng đầu lúc bấy giờ là Thủ tướng Phan Văn Khải, bởi không chỉ khắc phục tình trạng thiếu điện cho Miền Bắc mà còn tăng cường độ an toàn và tin cậy của hệ thống điện quốc gia.
 
Vì chạy song song với “mạch 1” nên những vị trí có địa hình đẹp, “mạch 1” với lợi thế đi trước đã “chiếm” từ 10 năm nay rồi. “Mạch 2” phải vào sâu hơn. Để kiểm soát tốt hơn chất lượng công trình, EVN đã giao cho 4 Công ty Truyền tải điện, những đơn vị sẽ tiếp nhận vận hành sau khi công trình hoàn thành. Những người vận hành được giao giám sát kỹ thuật thi công, họ xác định làm là làm cho mình, cho công tác vận hành của chính họ, nên các công đoạn đào, đúc, trộn bê tông, buộc cốt thép, chất lượng vật liệu…đều được anh em giám sát chặt chẽ.
 
Có thể nói, công trình đường dây 500kV mạch 2 về đích sớm với chất lượng cao là kết quả từ sự nỗ lực vượt bậc của các đơn vị tham gia dự án, trong đó phải kể đến công tác chỉ đạo, điều hành linh hoạt, sáng tạo của EVN và cơ chế mềm dẻo của Chính phủ. Đường dây 500kV mạch 2 thực sự là một cơ hội thử thách tài năng, trí tuệ của những người thợ điện Việt Nam. “Trục xương sống” thứ 2 trong hệ thống điện Việt Nam ra đời không chỉ có ý nghĩa kinh tế xã hội to lớn, khẳng định “thương hiệu Việt” trong xây dựng công trình điện, tuy nhiên, phần hiệu quả to lớn hơn nhiều, khó qui đổi ra tiền bạc đó là những kinh nghiệm, những bài học đã được áp dụng cho các công trình phát triển của Điện lực Việt Nam. Đường dây 500kV mạch 2 được Chính phủ quyết định đầu tư xây dựng, Hệ thống truyền tải điện Việt Nam có 2 trục đường dây 500kV Bắc-Nam đã khẳng định những hiệu quả mà Hệ thống truyền tải điện 500kV mang lại, là lời giải đáp những nỗi băn khoăn khi xây dựng đường dây 500kV mạch 1 và đang  cổ vũ chúng ta trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
 
Cuối năm 2012 và đầu năm 2013, EVN sau khi cân đối cung cầu đã nhận thấy tình hình cung cấp điện sẽ khó khăn cho khu vực miền Nam. Nhiều nơi đã bị mất điện cục bộ do quá tải đường truyền. Trong mùa khô 2013, đã có 2 đợt ngừng cung cấp khí là Nam Côn Sơn và Tây Nam bộ để bảo dưỡng. Theo kế hoạch, năm 2014, EVN sẽ sản xuất và mua 143,619 tỷ kWh điện, tăng 9,57% so với năm 2013, với sản lượng này sẵn sàng đáp ứng cho khả năng nhu cầu điện tăng cao hơn so với dự kiến tăng trưởng. Tuy nhiên, do một số công trình nguồn điện phía Nam vào chậm tiến độ nên khả năng sẽ xảy ra tình trạng thiếu điện ở Miền Nam. Để đáp ứng nhu cầu về điện cho phát triển kinh tế-xã hội và không ảnh hưởng tăng trưởng kinh tế Miền Nam, đường dây 500kV mạch 3 (Pleiku-Mỹ Phước-Cầu Bông) được gấp rút triển khai và hoàn thành trong vòng…trong điều kiện muôn vàn khó khăn về giải phóng mặt bằng và thời tiết khắc nghiệt, đỏng đảnh của Tây Nguyên đã khẳng định tài năng, trí tuệ và bản lĩnh của những người thợ điện Việt Nam và quyết định sáng suốt, nhạy bén của Chính Phủ.
 
Được khởi công vào tháng 10-2011. Thời gian thi công công trình là 2 năm rưỡi, nhưng cả 2 mùa xuân nhưng cán bộ, công nhân của các đơn vị thi công và Ban Quản lý dự án các công trình điện Miền Trung (đơn vị đại diện chủ đầu tư) đón giao thừa ngay trên công trình. Song với họ điều đó dường như không quan trọng, bởi trong mỗi người đều mang một trong trách nặng nề và vinh quang. Ngày đêm họ miệt mài chung sức xây dựng đường dây 500kV mạch 3 để cứu cho vừng kinh tế trọng điểm của cả nước khỏi cơn thiếu điện. Năng lượng sẽ được đưa từ Miền Bắc và Miền Trung Tây Nguyên vào Miền Nam như cách đây 20 năm khi xây dựng mạch 1.
 
Có thể khẳng định rằng, nếu không có sức trẻ, sức khỏe và lòng nhiệt tình, thì những người thợ xây dựng điện, những cán bộ quản lý mà chúng tôi đã gặp trên khắp các cung đoạn thi công đường dây 500kV Pleiku-Mỹ Phước-Cầu Bông khó có thể vượt qua được nhưng thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên. Những buổi trưa nắng oi bức, gió thổi ù tai trên cột điện cao chót vót, rồi những tháng mưa ở Tây Nguyên, ở Miền Đông Nam Bộ, mồ hôi lẫn nước ngấm vào bùn đất trong hố sâu của những móng cột…tất cả, tất cả những gian lao, vất vả ấy đã được những người thợ đón nhận và vượt qua.
 
Ngày 5-5-2014, Tổng công ty truyền tải điện Quốc gia đã đóng điện thành công và đưa vào vận hành an toàn đường dây 500kV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông. Việc đóng điện và đưa vào vận hành công trình trọng điểm cấp bách đường dây 500kV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ đúng tiến độ có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo truyền tải điện an toàn, ổn định từ miền Bắc vào miền Nam, kịp thời cung ứng đủ điện cho sinh hoạt và   phát triển kinh tế - xã hội của toàn Miền Nam nói chung và TP. Hồ Chí Minh nói riêng ngay trong mùa khô năm 2014-2015 và những năm tiếp theo. 
 
Cùng với  đường dây 500kV mạch 1 và mạch 2, việc đưa vào vận hành kịp thời  đường dây 500kV mạch 3 Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông góp phần tạo tiền đề liên kết lưới điện khu vực Đông  - Tây Nam Bộ, đảm bảo vận hành hệ thống điện an toàn, kinh tế trong trường hợp cần có sự trao đổi điện năng ở mức độ cao giữa các vùng – miền trên cả nước, với sản lượng truyền tải đường dây 500kV Bắc Nam từ khi đi vào vận hành (từ 1995 đến 2014) là 299,87 tỷ kWh. Trong đó, năm 2014 truyền tải cao nhất từ trước tới nay với sản lượng là 42,72 tỷ kWh. Góp phần quyết định tăng trưởng nền kinh tế trong giai đoạn tương ứng.
 
Nếu như đường dây 500kV mạch 1 được xây dựng bằng tinh thần dám làm dám chịu trách nhiệm, đường dây 500kV mạch 2 được xây dựng bằng tinh thần phát huy nội lực và chứng minh khả năng tự cường dân tộc thì đường dây 500kV mạch 3 Pleiku-Mỹ Phước-Cầu Bông được xây dựng bằng sức trẻ, lòng nhiệt thành và bản lĩnh của những người thợ điện Việt Nam.
Thanh Mai/Icon.com.vn