Kỷ niệm 60 năm ngành Điện

Vài nét về lịch sử của hệ thống truyền tải điện Quốc gia

Thứ tư, 17/12/2014 | 14:59 GMT+7
Với vai trò là “xương sống” của ngành điện, hệ thống truyền tải điện Quốc gia đã trở thành bộ phận quan trọng trong hạ tầng cơ sở, là tiền đề để xây dựng thị trường điện cạnh tranh. Sự kiện EVNNPT ra đời đã mở ra một tương lai tươi sáng cho sự phát triển của hệ thống truyền tải điện Quốc gia.


Công nhân PTC1 sửa chữa, bảo dưỡng đường dây.
 
Sự hình thành và phát triển của Hệ thống truyền tải điện Quốc gia  trải qua bề dày lịch sử, cùng với sự phát triển của ngành điện Việt Nam đã ghi nhận nhiều mốc son đáng nhớ. Trong đó, sự kiện Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 01/7/2008 là một dấu mốc quan trọng, đánh dấu sự quyết liệt của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) trong việc từng bước tái cơ cấu ngành điện, đáp ứng đòi hỏi của kinh tế thị trường. Kể từ thời điểm này, công tác quản lý vận hành và đầu tư phát triển hệ thống truyền tải điện Quốc gia đã được thu về một mối thống nhất. 
 
TS. Đặng Phan Tường - Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia
 
Quá trình hình thành và phát triển
 
Ngược dòng thời gian 120 năm về trước để tìm về cội nguồn lịch sử của ngành điện Việt Nam. Nhà máy điện đầu tiên ở Đông Dương đã được khởi công xây dựng ở thành phố Hải Phòng năm 1892 và chính thức đưa vào hoạt động tháng 02/1894. Hơn 60 năm sau, phải tới ngày giải phóng Thủ đô 10/10/1954, nhân dân Việt Nam mới chính thức được làm chủ ngành điện, với công suất ban đầu chỉ là 31,5 MW, sản lượng điện năng khoảng 53 triệu kWh/năm, lực lượng cán bộ kỹ thuật chỉ có 7 kỹ sư điện, 5 kỹ thuật viên của chính quyền cũ ở lại và đội ngũ công nhân của nhà máy điện.
 
Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại từ năm 1954 - 1975, cùng hòa chung thắng lợi của dân tộc, lưới điện miền Bắc Việt Nam cũng từng bước được xây dựng và phát triển. Năm 1962, những tuyến đường dây 110kV đầu tiên của hệ thống điện Việt Nam (Đông Anh - Việt Trì, Uông Bí - Hải Phòng) được khởi công xây dựng và hoàn thành đóng điện vào năm 1963. Tại thời điểm đó, chỉ ở miền Bắc mới có hệ thống lưới điện 110kV. Trong khoảng thời gian 10 năm tiếp theo, đã có tới 9/12 nhà máy điện ở miền Bắc được kết nối bằng hệ thống đường dây 110kV và hệ thống này đã hoàn thành tốt nhiệm vụ truyền tải điện năng từ các nhà máy đến các trung tâm phụ tải.
 
Trên danh nghĩa bồi thường chiến tranh, năm 1961, Chính phủ Nhật Bản đã giúp đỡ chính quyền Việt Nam Cộng hòa khởi công xây dựng và năm 1964 đóng điện vận hành tuyến đường dây 230kV Đa Nhim - Sài Gòn, dài 257km, với 729 cột thép đi qua địa hình sông, núi rất hiểm trở. Đây chính là tuyến đường dây truyền tải cấp điện áp 220kV đầu tiên của Việt Nam.
 
Sau khi đất nước thống nhất, cán bộ, công nhân ngành điện lại tiếp tục chung sức, đồng lòng để cùng nhau xây dựng và phát triển hệ thống điện Việt Nam. Đường dây 220kV Hà Đông - Hòa Bình là tuyến đường dây truyền tải cấp điện áp 220kV đầu tiên ở miền Bắc, được khởi công tháng 3/1979 và đóng điện vận hành tháng 5/1981 đã minh chứng cho trình độ, tinh thần và bản lĩnh của những con người làm công tác truyền tải điện Việt Nam. Thống kê cho thấy, trong vòng hơn 13 năm tiếp theo, đến trước khi ra đời, hệ thống truyền tải cấp điện áp 500kV, hệ thống truyền tải điện 220kV đã phát triển và đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận như: tổng dung lượng máy biến áp 220kV tăng gấp hơn 5 lần lên 2.305 MVA, tổng chiều dài đường dây 220kV đã tăng gấp gần 3 lần lên 1.913 km.
 
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra chủ trương đổi mới, tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam có những bước chuyển biến tích cực, cùng với đó là nhu cầu điện năng ngày càng lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để khắc phục bất cập việc các nhà máy điện ở miền Bắc không phát hết công suất, có hiện tượng “thừa điện” thì khu vực miền Nam với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ và năng động có nhu cầu điện tăng cao, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định xây dựng đường dây 500kV Bắc - Nam (mạch 1). Đây là quyết định mang tính lịch sử, gây xôn xao dư luận trong và ngoài nước.
 
Ngày 05/4/1992, công trình đường dây 500kV mạch 1 đã được khởi công và ngày 27/5/1994 đã khánh thành, đóng điện vận hành. Lần đầu tiên trong lịch sử, hệ thống điện Việt Nam đã có “trục xương sống” 500kV chạy suốt từ Bắc vào Nam sau 02 năm xây dựng thần tốc.
 
Hệ thống truyền tải điện 500kV Bắc - Nam mạch 1 đi vào vận hành đã phát huy ngay vai trò của mình trong Hệ thống điện Quốc gia. Một lượng điện năng rất lớn cung cấp cho miền Nam và miền Trung từ miền Bắc đã được truyền tải qua hệ thống này, cụ thể năm 1994 là 988 triệu kWh và năm 1995 lên tới 2.813 triệu kWh. Riêng trạm biến áp 500kV Phú Lâm, năm 1995 đã nhận đến 2.005 triệu kWh, nhiều hơn điện năng phát trong cùng năm của hai nhà máy thủy điện Trị An và Thác Mơ cộng lại. Điện năng cung cấp cho miền Trung tăng thêm 43%, chất lượng điện áp được cải thiện rõ rệt. Hệ thống truyền tải điện 500kV Bắc - Nam đã đáp ứng hơn 30% nhu cầu điện năng của miền Nam.
 
Tiếp nối kỳ tích mạch 1, ngày 23/10/2005, đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 2 tiếp tục được hoàn thành và đưa vào vận hành, đảm bảo hệ thống truyền tải điện 500kV có hai mạch song song, tạo liên kết vững chắc, vận hành an toàn, tin cậy cho Hệ thống truyền tải điện Quốc gia. Việc xây dựng và đưa vào vận hành thành công hệ thống truyền tải điện 500kV Bắc - Nam mạch 2 đã đánh dấu bước trưởng thành quan trọng của ngành điện Việt Nam trong lĩnh vực nghiên cứu, khảo sát, thiết kế, xây dựng, quản lý vận hành và hợp tác quốc tế.
 
Trải qua khoảng thời gian hơn 14 năm kể từ khi đường dây 500kV mạch 1 được đưa vào vận hành đến trước khi Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia được thành lập (năm 2008), hệ thống truyền tải điện 220kV, 500kV đã được xây dựng và phát triển với những kết quả đáng ghi nhận. Tổng dung lượng máy biến áp 220kV, 500kV đã tăng hơn 4,7 lần lên 23.517 MVA, tổng chiều dài đường dây truyền tải điện 220kV, 500kV tăng gần 3,5 lần lên 11.443 km.
 
Cùng với sự phát triển của hệ thống truyền tải điện, sự hình thành và phát triển của 4 Công ty Truyền tải điện 1, 2, 3, 4 từ ngày đầu mới thành lập đến nay là một trong những minh chứng rõ nét nhất cho sự lớn mạnh của đội ngũ cán bộ, công nhân làm công tác truyền tải điện về cả lượng và chất.
 
Ngày 15/9/1976, tại thành phố Hồ Chí Minh, Sở Quản lý Truyền tải điện được thành lập, với tổng số cán bộ công nhân viên là 649 người, tiếp quản lưới điện tương đối “quy mô”, với tổng chiều dài 257 km đường dây 230kV và 543 km đường dây 66kV; 28 trạm biến áp 66/15-6,6kV và 01 trạm biến áp 230/66/11kV, với tổng công suất 432 MVA.
 
Ngày 04/3/1995, Sở Quản lý Truyền tải điện được đổi tên thành Công ty Truyền tải điện 4 (PTC4). Hiện nay, PTC4 đã trưởng thành với lực lượng cán bộ công nhân viên gần 2.000 người, quản lý vận hành 07 trạm biến áp 500kV và 29 trạm biến áp 220kV, với tổng dung lượng 22.467 MVA; 1.381 km đường dây 500kV và 3.776 km đường dây 220kV.
 
Ngày 01/5/1981, tại Thủ đô Hà Nội, Sở Truyền tải điện miền Bắc được thành lập, với gần 200 cán bộ công nhân viên có nhiệm vụ quản lý vận hành 07 TBA và 145 km đường dây 110kV trong điều kiện cực kỳ khó khăn như: cơ sở vật chất thiếu thốn, hệ thống lưới truyền tải điện quá già cỗi, thiết bị không đồng bộ và không có thiết bị dự phòng, điều kiện bảo dưỡng eo hẹp.
 
Ngày 25/3/1995, Sở Truyền tải điện miền Bắc được đổi tên thành Công ty Truyền tải điện 1 (PTC1). Hiện nay, PTC1 đã lớn mạnh với hơn 2.440 cán bộ công nhân viên, đang quản lý vận hành 07 trạm biến áp 500kV, 34 trạm biến áp 220kV với tổng dung lượng 20.125 MVA; 2.524 km đường dây 500kV và 4.916 km đường dây 220kV.
 
Ngày 13/03/1990, tại thành phố Đà Nẵng, Sở Truyền tải điện 1 được thành lập gồm 350 cán bộ công nhân viên quản lý vận hành 01 trạm biến áp 220kV và 03 trạm biến áp 110kV, với tổng cộng 60 km đường dây 220kV và 350 km đường dây 110kV.
 
Ngày 04/3/1995, Sở Truyền tải điện 1 được đổi tên thành Công ty Truyền tải điện 2 (PTC2). Hiện nay, PTC2 có đội ngũ cán bộ công nhân viên gồm hơn 1.000 người, quản lý vận hành 03 trạm biến áp 500kV và 08 trạm biến áp 220kV với tổng dung lượng 3.651 MVA; 1.212 km đường dây 500kV và 1.105 km đường dây 220kV.
 
Ngày 01/6/1990, tại thành phố Nha Trang, Sở Truyền tải điện 2 được thành lập chỉ có 20 người, với nhiệm vụ quản lý vận hành hệ thống truyền tải điện khu vực Nam miền Trung và Tây Nguyên. Nhưng trên thực tế, thời gian đầu mới thành lập Sở Truyền tải điện 2 không có cơ sở vật chất, không có phương tiện, không có nơi làm việc và không có cả đường dây truyền tải điện để quản lý.
 
Ngày 01/4/1995, Sở Truyền tải điện 2 được đổi tên thành Công ty Truyền tải điện 3 (PTC3). Hiện nay, PTC3 đã có một lực lượng cán bộ công nhân viên hơn 1.000 người, quản lý vận hành 04 trạm biến áp 500kV và 06 trạm biến áp 220kV với tổng dung lượng 5.993 MVA; 1.619 km đường dây 500kV và 2.156 km đường dây 220kV.
 
Để đáp ứng yêu cầu đầu tư xây dựng Hệ thống truyền tải điện Quốc gia, các Ban Quản lý dự án các công trình điện ở 3 miền, với nhiệm vụ quản lý quá trình đầu tư xây dựng các dự án đã được thành lập và phát triển.
 
Tháng 02/1981, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Quản lý lưới điện cao thế 1 gồm 40 cán bộ được thành lập trong hoàn cảnh rất khó khăn, trụ sở làm việc là 1 căn phòng khoảng 24 m2, cơ sở vật chất thiếu thốn, lạc hậu.
 
Năm 1986, Ban Quản lý lưới điện cao thế 1 được đổi tên thành Ban Quản lý công trình điện miền Bắc và từ ngày 15/7/1995 được sáp nhập với Ban Quản lý dự án Đường dây 500kV Bắc - Nam, chuyển thành Ban Quản lý dự án các công trình điện miền Bắc (NPMB).
 
Tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 16/12/1986, Ban Quản lý Đầu tư gồm 13 cán bộ công nhân viên đã được thành lập trong hoàn cảnh rất khó khăn. Hệ thống lưới điện tiếp quản của chế độ cũ tuy đã được khôi phục sau chiến tranh nhưng đã già cỗi, lạc hậu, không đáp ứng kịp nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Từ ngày 28/6/1995, Ban Quản lý Đầu tư được đổi tên thành Ban Quản lý dự án các công trình điện miền Nam (SPMB).
 
Ngày 07/7/1988, tại thành phố Đà Nẵng, Ban Quản lý công trình điện được thành lập, gồm 60 người, với nhiệm vụ quản lý thi công các công trình đầu tư xây dựng đường dây, trạm biến áp 110 - 220kV tuyến Vinh - Quảng Ngãi và Vinh - Đồng Hới - Đà Nẵng để truyền tải điện năng từ Nhà máy Thủy điện Hòa Bình vào miền Trung. Từ ngày 28-6-1995, Ban Quản lý công trình điện được đổi tên thành Ban quản lý dự án các công trình điện miền Trung (CPMB). Kể từ ngày thành lập đến nay, các Ban Quản lý dự án các công trình điện với lực lượng cán bộ có chuyên môn ngày càng cao, luôn hoàn thành nhiệm được giao đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của Hệ thống truyền tải điện Quốc gia.
 
Vào trước thời điểm năm 1981, cả nước mới chỉ có 02 đường dây 220kV và 02 trạm biến áp 220kV. Đến nay, lưới truyền tải điện do ENNNPT quản lý đã phát triển mạnh cả về quy mô và công nghệ với tổng cộng trên 18.960 km đường dây, bao gồm 6.737 km đường dây 500kV, 12.185 km đường dây 220kV và 42 km đường dây 110kV; 102 trạm biến áp, bao gồm 21 TBA 500kV, 80 TBA 220kV và 01 TBA 110kV, với tổng dung lượng MBA là 54.676 MVA. Lưới truyền tải điện Quốc gia đã vươn tới 61/63 tỉnh, thành phố trong cả nước và từng bước kết nối với lưới điện truyền tải của các nước trong khu vực, với công nghệ ngày càng hiện đại như đường dây nhiều mạch, nhiều cấp điện áp, cáp ngầm cao áp 220kV, trạm GIS 220kV, hệ thống điều khiển tích hợp bằng máy tính, thiết bị định vị sự cố, giám sát dầu online, hệ thống SCADA…
 
Bước ngoặt lịch sử
 

Đường dây 500kV Sơn La- Hiệp Hòa.
 
Trước đòi hỏi cấp thiết của công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, thực hiện Quyết định số 26/2006/QĐ - TTg ngày 26/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt lộ trình, các điều kiện hình thành và phát triển các cấp độ thị trường điện lực tại Việt Nam, ngày 01/7/2008, Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia chính thức được thành lập, trên cơ sở tổ chức lại 4 Công ty Truyền tải điện 1, 2, 3, 4 và 3 Ban Quản lý dự án các công trình điện miền Bắc, miền Trung và miền Nam, hoạt động theo mô hình Công ty TNHH một thành viên 100% vốn nhà nước, với nhiệm vụ chính là đầu tư xây dựng và quản lý vận hành Hệ thống truyền tải điện Quốc gia. EVNNPT được thành lập với sứ mệnh "Đảm bảo truyền tải điện an toàn, liên tục, ổn định cho các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng và thị trường điện Việt Nam".
 
Kể từ thời điểm này, hệ thống lưới điện cấp điện áp 110kV được bàn giao cho các Tổng công ty Điện lực, EVNNPT thực hiện nhiệm vụ đầu tư xây dựng và quản lý vận hành Hệ thống truyền tải điện Quốc gia, bao gồm các trạm biến áp và đường dây cấp điện áp 220kV và 500kV. Sự kiện này đã đánh dấu sự phát triển của ngành điện và mở ra giai đoạn phát triển mới trong lĩnh vực truyền tải điện Việt Nam.
 
Ngay từ ngày đầu mới thành lập, mặc dù phải đối mặt với những khó khăn, thách thức rất lớn như: ảnh hưởng tiêu cực từ suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến tình trạng khó khăn chung của đất nước; tình trạng quá tải trên diện rộng của hệ thống truyền tải điện và thiếu vốn đầu tư trầm trọng; hàng loạt công trình, đặc biệt là các công trình đồng bộ với nguồn chậm tiến độ… nhưng với bản lĩnh của người lính truyền tải điện đầy lòng nhiệt huyết, giàu kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc trong lĩnh vực truyền tải điện cả về phương diện kỹ thuật và quản lý, EVNNPT đã lựa chọn chính xác các khâu đột phá và tập trung cả bộ máy vào giải quyết các nút thắt trọng yếu, để từ đó tiến hành đồng thời việc củng cố tổ chức, thống nhất thể chế quản lý. Thực tế đã chứng minh hướng đi đúng của EVNNPT. Trong khoảng thời gian hơn 06 năm đã đóng điện đưa vào vận hành hơn 290 công trình, trong đó có nhiều công trình trọng điểm Quốc gia.
 
Chỉ 8 tháng sau khi được thành lập, EVNNPT đã đóng điện đường dây 220kV Châu Đốc - Tịnh Biên - Takeo cấp điện cho Campuchia vào tháng 03/2009. Đây là đường dây 2 mạch dài 69,5 km, 210 vị trí cột, công suất truyền tải lớn nhất 200 MW, sản lượng trung bình từ 900 triệu đến 1,4 tỷ kWh/năm. Công trình này có ý nghĩa to lớn không chỉ về kinh tế mà còn góp phần mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước.
 
Tiếp theo, EVNNPT đã kịp thời hoàn thành các công trình lưới điện 500kV đấu nối đồng bộ Nhà máy thủy điện Sơn La (gồm đường dây 500kV đấu nối nhà máy thủy điện Sơn La - trạm biến áp 500kV Sơn La, trạm biến áp 500kV Sơn La, đường dây 500kV Sơn La - Hòa Bình - Nho Quan, đường dây 500kV Sơn La - Hiệp Hòa, trạm biến áp 500kV Hiệp Hòa) để đưa dòng điện của Sơn La hòa vào lưới điện Quốc gia, góp phần vào thành tích của EVN hoàn thành đóng điện Nhà máy thủy điện Sơn La vượt tiến độ hơn 2 năm; đóng điện và đưa vào vận hành đường dây 220kV Đắk Nông - Phước Long - Bình Long vào ngày 28/12/2012 sau hơn 12 tháng triển khai thi công, góp phần quan trọng đảm bảo cung cấp điện cho khu vực miền Nam và Thành phố Hồ Chí Minh.
 
EVNNPT đã hoàn thành đóng điện các công trình 500kV trọng điểm, tạo thành hệ thống lưới điện 500kV đấu nối các nhà máy điện và các mạch vòng, đảm bảo cấp điện cho các thành phố lớn, các khu vực trọng điểm kinh tế như mạch vòng 500kV Phú Mỹ - Sông Mây - Tân Định - Phú Lâm - Nhà Bè - Phú Mỹ; Sơn La - Hiệp Hòa - Quảng Ninh - Thường Tín - Nho Quan - Hòa Bình - Sơn La. Đặc biệt, 2 mạch đường dây 500kV Bắc - Nam đã được EVNNPT đầu tư nâng dung lượng tụ bù dọc để tăng cường khả năng tải, vì vậy, công suất truyền tải trên 2 mạch đường dây 500kV Bắc - Nam có thể lên tới 2.300 MW, sản lượng truyền tải đạt trên 12 tỷ kWh/năm.
 
Ngày 5/5/2014, EVNNPT đã đóng điện thành công và đưa vào vận hành đường dây 500kV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông (đường dây 500kV mạch 3). Việc đóng điện và đưa vào vận hành công trình trọng điểm cấp bách này đúng tiến độ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và EVN có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo truyền tải điện an toàn, ổn định từ miền Bắc, miền Trung vào miền Nam, kịp thời cung cấp đủ điện cho sinh hoạt và phát triển kinh tế - xã hội của toàn miền Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng ngay trong mùa khô năm 2014 và những năm tiếp theo.
 
Kể từ ngày thành lập, những người lính truyền tải điện phải luôn luôn nỗ lực về mọi mặt để vượt qua khó khăn, thách thức về tình trạng quá tải, về nguy cơ sự cố, về điều kiện làm việc còn nhiều hạn chế để đảm bảo vận hành an toàn Hệ thống truyền tải điện Quốc gia đáp ứng yêu cầu tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.
 
EVNNPT thường xuyên thực hiện công tác điều tra, kiểm điểm, phân tích sự cố, tìm nguyên nhân và đề ra các giải pháp hữu hiệu, nhằm khắc phục và ngăn ngừa các sự cố tương tự. Hệ thống thông tin vận hành lưới truyền tải điện đã hoàn thành để có thể giúp lựa chọn giải pháp hợp lý về phương thức vận hành, về củng cố nâng cao chất lượng thiết bị và đầu tư lưới. Lưới truyền tải điện đã được đầu tư công nghệ tự động hóa, công nghệ mới để đảm bảo tính an toàn, tin cậy và cải thiện môi trường sinh thái.
 
EVNNPT đã đảm bảo truyền tải điện an toàn, liên tục, ổn định góp phần quan trọng cùng EVN cung cấp đủ điện cho đất nước. Trong hơn 6 năm qua, EVNNPT đã truyền tải an toàn hơn 644 tỷ kWh điện, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 11%; các chỉ tiêu suất sự cố đường dây và trạm biến áp đều thấp hơn so với các chỉ tiêu được giao, nhiều đội đường dây, trạm biến áp đảm bảo vận hành an toàn tuyệt đối.
 
Bên cạnh các thành tích đạt được trong công tác đầu tư xây dựng và quản lý vận hành, công tác quản lý, quản trị doanh nghiệp, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động luôn được EVNNPT quan tâm thực hiện.
 
EVNNPT đã hoàn thành việc xóa bỏ tình trạng các công trình lâm quản tồn tại từ nhiều năm trước đây. Công tác quyết toán các dự án đầu tư xây dựng hoàn thành theo quy định đã được EVNNPT tích cực chấn chỉnh và hoàn thành trong năm 2014. Việc thu hồi các khoản công nợ tồn đọng đã cơ bản được giải quyết. Công tác thu xếp vốn cho các công trình đầu tư xây dựng cả trong ngắn hạn và dài hạn đã được EVNNPT đặc biệt quan tâm và thực hiện tốt.
 
EVNNPT đã tích cực làm việc với Chính phủ, các bộ, ngành, EVN, các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài để tìm biện pháp thực hiện huy động vốn từ nhiều nguồn vốn khác nhau, đa dạng các nguồn vốn vay cũng như hình thức huy động vốn như vay ODA, vay Nexi Untied, thuê mua tài chính, vay thương mại. Đặc biệt trong tháng 11/2014, EVNNPT đã phát hành thành công trái phiếu với khối lượng 1.500 tỷ đồng để bổ sung thêm nguồn vốn cho hoạt động của Tổng công ty.
 
EVNNPT đặc biệt quan tâm củng cố và tăng cường công tác sắp xếp, đổi mới, tái cơ cấu và phát triển doanh nghiệp. Nhiệm vụ tối ưu hóa chi phí trong sản xuất kinh doanh và đầu tư giai đoạn 2014 - 2016 được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo hoàn thành đúng tiến độ, chất lượng. Thực hiện sắp xếp lại sản xuất và sử dụng lực lượng lao động khoa học, hợp lý, hiệu quả.
 
EVNNPT đã thực hiện tốt việc bổ sung trang thiết bị, phương tiện, dụng cụ phục vụ công tác thí nghiệm, sửa chữa và xử lý sự cố; đầu tư xây dựng các nhà làm việc cho các đội truyền tải điện để sớm khắc phục tình trạng phải đi thuê nhà làm việc; trang bị bổ sung xe ô tô chở công nhân đi làm trên tuyến và khắc phục cơ bản tình trạng thiếu xe chở công nhân đi làm ở các đội truyền tải điện, nhằm đảm bảo cho việc vận hành an toàn, liên tục, ổn định lưới điện truyền tải. Tiền lương và thu nhập của cán bộ công nhân viên được ổn định; điều kiện và môi trường làm việc trong toàn EVNNPT ngày càng được cải thiện. Cán bộ công nhân toàn Tổng công ty luôn tự hào và tin tưởng vào EVNNPT.
 
Với những thành tích nổi bật đã đạt được trong hơn 6 năm qua, với bản lĩnh của người lính truyền tải điện, với sự sáng suốt của tập thể lãnh đạo, sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, cùng với tinh thần làm việc tận tụy và quyết tâm cao của toàn thể cán bộ công nhân viên, EVNNPT luôn tin tưởng sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức để hoàn thành xuất sắc sứ mệnh vẻ vang “Đảm bảo truyền tải điện an toàn, liên tục, ổn định cho các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng và thị trường điện Việt Nam” và vững bước tiến vào tương lai với mục tiêu đến năm 2020 “vươn lên hàng đầu châu Á về dịch vụ truyền tải điện”.
Theo: EVNNPT