Gần một năm sau khi Bác Hồ đến thăm Nhà máy đèn Bờ Hồ, ngày 21-7-1955, Bộ Công thương quyết định thành lập Cục Ðiện lực. Kể từ thời điểm này, ngành điện Việt Nam trở thành một bộ phận gắn bó hữu cơ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc của nhân dân ta.
Trong giai đoạn thực hiện nhiệm vụ kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở miền bắc, đã có 9/12 nhà máy điện đi vào vận hành và được kết nối với nhau tạo thành hệ thống điện đầu tiên ở miền bắc. Ðiện được cung cấp cho tất cả các thành phố, khu công nghiệp chính, các tỉnh đồng bằng, một số tỉnh trung du, miền núi, tạo điều kiện cho công, nông nghiệp phát triển, cải thiện một bước về đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Ðến năm 1965, công suất nguồn điện đạt 176 MW, gấp 5,6 lần so với năm 1954, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 21%/năm; sản lượng điện đạt 618 triệu kW giờ/năm, tăng 11,7 lần so với năm 1954, với tốc độ tăng trưởng 31,35%/năm, đóng góp xứng đáng vào việc hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch của đất nước nói chung và ngành điện nói riêng.
Trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền bắc, các cơ sở ngành điện trở thành những mục tiêu trọng điểm bị tập trung đánh phá. Thiết bị, nhà xưởng bị hư hỏng nặng nề, có những nhà máy gần như bị hủy diệt hoặc hư hỏng nặng như Nhà máy điện Yên Phụ, Hàm Rồng, Vinh, Uông Bí...; hàng trăm CBCNV ngành điện đã anh dũng hy sinh hoặc bị thương tật suốt đời để giữ cho dòng điện không bao giờ tắt. Song song với nhiệm vụ sản xuất, chiến đấu, trong giai đoạn này cùng với sự giúp đỡ của các nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc, ngành điện đã đẩy mạnh việc xây dựng các nhà máy điện mới như thủy điện Thác Bà (108 MW), nhiệt điện Ninh Bình (100 MW), mở rộng thêm phần cao áp Nhà máy nhiệt điện Uông Bí (105 MW), đồng thời xây dựng thêm hàng trăm km đường dây, nhiều trạm biến áp truyền tải, tiếp tục mở rộng mạng lưới điện phân phối.
Mùa xuân năm 1975, với thắng lợi lịch sử của chiến dịch Hồ Chí Minh, miền nam được giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất, ngành điện đã khẩn trương chuẩn bị lực lượng, tiếp quản, quản lý, điều hành lưới điện miền trung và miền nam, huy động một khối lượng lớn vật tư, thiết bị để nhanh chóng sửa chữa, khôi phục các cơ sở điện vùng mới giải phóng để duy trì sản xuất cung ứng điện cho miền trung và miền nam sau giải phóng, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội khi chính quyền cách mạng được thành lập. Ðến cuối năm 1975, tổng công suất các nguồn điện trong cả nước đạt 1.326,3 MW, tổng sản lượng điện sản xuất đạt 2,950 tỷ kW giờ (trong đó miền bắc là 1,271 tỷ kW giờ, miền nam: 1,614 tỷ kW giờ, miền trung: 65 triệu kW giờ).
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước, ngoài việc khôi phục để bảo đảm duy trì năng lực nguồn hiện có, ngành điện đã tập trung chuẩn bị các điều kiện vật chất, kỹ thuật, con người để thực hiện việc xây dựng cũng như phát triển điện lực theo quy hoạch dài hạn. Các nhà máy thủy điện Hòa Bình, nhiệt điện Phả Lại và hệ thống lưới điện 220 kV được xây dựng.
Ðặc biệt, năm 1992, Chính phủ quyết định xây dựng hệ thống tải điện 500 kV bắc - nam với chiều dài 1.487 km và bốn trạm biến áp 500 kV, tổng vốn đầu tư 5.300 tỷ đồng. Chỉ sau hai năm vừa thiết kế, vừa thi công, công trình được đưa vào vận hành ngày 27-5-1994. Với một công trình lớn bậc nhất vào thời điểm đó, lại hoàn thành trong một thời gian ngắn kỷ lục như vậy, đây thật sự là một kỳ tích đáng tự hào của đất nước, trong đó có ngành điện. Sự kiện quan trọng này đã đánh dấu bước trưởng thành mang tính đột phá của ngành điện Việt Nam về công nghệ truyền tải và điều khiển hệ thống điện. Hệ thống điện quốc gia từ đây được hình thành trên cơ sở liên kết lưới điện các miền bắc - trung - nam thông qua trục "xương sống" là đường dây 500 kV, giải quyết được tình trạng thiếu điện ở miền trung và miền nam trong giai đoạn đó, đồng thời cho phép khai thác tối ưu, hiệu quả nguồn điện của cả nước, tạo điều kiện bảo đảm cung ứng điện an toàn, ổn định phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
... đến phát huy vai trò chủ đạo trong cung cấp điện cho nền kinh tế đất nước
Từ năm 1995 trở lại đây, Tổng công ty Ðiện lực Việt Nam, nay là Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam (EVN) tiếp tục triển khai Tổng sơ đồ phát triển điện lực Giai đoạn IV, Giai đoạn V và hiện đang tập trung nguồn lực thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến 2025 (Quy hoạch điện VI) được Thủ tướng phê duyệt ngày 18-7-2007. Trong giai đoạn này, Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam tiếp tục đạt được nhiều thành tựu căn bản và quan trọng. Ðó là:
Giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo trong bảo đảm cung cấp điện cho nền kinh tế và xã hội. Ðáp ứng một cách cơ bản nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao nhiều năm liên tục. Ðẩy mạnh đầu tư xây dựng nhiều công trình nguồn và lưới điện. Thực hiện được khối lượng đầu tư lớn, quy mô nguồn và lưới điện không ngừng được mở rộng. Hiệu quả vận hành hệ thống điện được nâng cao, tỷ lệ tổn thất điện năng giảm từ 21,4% năm 1995 xuống mức một con số (9,21%) năm 2008, bình quân mỗi năm giảm được 0,93%. Ðầu tư điện cho nông thôn, vùng sâu, vùng xa có bước phát triển vượt bậc, góp phần cải thiện đời sống và chuyển đổi cơ cấu kinh tế tại các địa phương. Hiện nay, Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam đang thực hiện bốn dự án đầu tư điện nông thôn quy mô lớn vay vốn Ngân hàng Thế giới (WB) trị giá 370 triệu USD và gần 2.000 tỷ đồng để cấp điện cho các thôn, buôn thuộc năm tỉnh Tây Nguyên (sau khi hoàn thành sẽ nâng tỷ lệ số hộ có điện của năm tỉnh Tây Nguyên lên 90%), cấp điện cho đồng bào Khmer tại Trà Vinh, Sóc Trăng. Từ tháng 6-2008, Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam triển khai một chương trình mang ý nghĩa chính trị - xã hội lớn lao là tiếp nhận toàn bộ lưới điện hạ áp hiện đang do các HTX điện, tổ điện quản lý để bán điện trực tiếp đến tất cả các hộ dân nông thôn nhằm tạo điều kiện cho người dân được hưởng lợi từ chính sách giá điện của Chính phủ. Mục tiêu là đến tháng 6-2010 sẽ hoàn thành tiếp nhận toàn bộ gần 5.300 xã với 6,6 triệu hộ; Sản xuất kinh doanh có hiệu quả, cân bằng được tài chính, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước, thực hiện tốt vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô và thực hiện chính sách an sinh xã hội của Chính phủ. Lợi nhuận của Tập đoàn giai đoạn 1995-2008 đạt 31.975 tỷ đồng, thu nộp ngân sách Nhà nước đạt 38.134 tỷ đồng, giá trị tài sản cố định đến cuối năm 2008 đạt 192.679 tỷ đồng, tăng gấp 6,9 lần so với năm 1995.
Hiện nay, tổng công suất nguồn điện thuộc sở hữu của Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam là 10.719 MW (chiếm 68% công suất toàn hệ thống điện), sản lượng điện do các nhà máy thuộc Tập đoàn sản xuất là 53,093 tỷ kW giờ (chiếm 71,53% sản lượng điện toàn hệ thống). Tập đoàn đang quản lý, vận hành 24.386 km đường dây truyền tải điện cấp điện áp từ 110 đến 500 kV, 281.635 km đường dây trung, hạ thế, 46.602 MVA dung lượng trạm biến áp từ 110 đến 500 kV, 42.983 MVA dung lượng trạm biến áp trung, hạ thế.
Trong ba năm gần đây, thực hiện Quyết định số 147/2006/QÐ-TTg và 148/2006/QÐ-TTg ngày 22-6-2006 của Thủ tướng Chính phủ, Tập đoàn đã chuyển đổi thành công mô hình tổ chức từ tổng công ty nhà nước sang mô hình tập đoàn kinh tế. Tập đoàn đã đẩy mạnh quá trình sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp trực thuộc. Ðến nay, với quy mô 71 đơn vị thành viên và trực thuộc, 22 đơn vị liên kết, về cơ bản Tập đoàn đã hoàn thiện các cơ chế quản lý, điều hành, đã thực hiện cổ phần hóa 30 đơn vị, trong đó có sáu công ty phát điện (trong đó có nhiều doanh nghiệp lớn như nhiệt điện Phả Lại, Thác Mơ, Vĩnh Sơn - Sông Hinh, v.v...), một công ty phân phối điện, bốn công ty tư vấn xây dựng điện và 19 doanh nghiệp khác. Bên cạnh lĩnh vực sản xuất và kinh doanh điện năng, hai ngành nghề kinh doanh chính khác của Tập đoàn là viễn thông công cộng và cơ khí chế tạo thiết bị điện được mở rộng. Doanh thu cơ khí chế tạo năm 2008 đạt 1.700 tỷ đồng với nhiều sản phẩm đa dạng: máy biến áp lực ở các cấp điện áp đến 220 kV (đang nghiên cứu chế tạo máy biến áp 500 kV); cột thép cho đường dây tải điện; cáp và phụ kiện đường dây; đặc biệt đã chế tạo thiết bị cơ khí thủy công và cấu kiện cho nhiều dự án lớn, có tầm quan trọng quốc gia như thủy điện Buôn Kuốp (280 MW), thủy điện Bản Vẽ (320 MW), A Vương (210 MW), thủy điện Sơn La (2.400 MW). Năm 2008, Tập đoàn đã cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng cho gần 3,7 triệu khách hàng, doanh thu đạt hơn 3.700 tỷ đồng. Các hoạt động kinh doanh khác như ngân hàng, tài chính, v.v. cũng được từng bước phát triển, tạo thêm kênh huy động vốn hiệu quả cho các dự án đầu tư xây dựng nguồn và lưới điện của Tập đoàn.
Về hợp tác quốc tế, trong khuôn khổ ASEAN, các nước tiểu vùng sông Mê Công (GMS), Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam là một doanh nghiệp đi đầu trong thực hiện liên kết lưới điện liên quốc gia, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta và các nước trong khu vực. Tập đoàn đã thực hiện kết nối lưới điện ở cấp điện áp 110 kV và 220 kV với Công ty lưới điện phương Nam (Trung Quốc), đang cung cấp điện cho Thủ đô Phnôm Pênh của Cam-pu-chia qua hai đường dây 220 kV, đồng thời bán điện cho nhiều địa phương khác của Cam-pu-chia và Lào ở nhiều điểm dọc biên giới. Quan hệ của Tập đoàn với các công ty điện lực, các hiệp hội và các hãng chế tạo lớn trên thế giới ngày càng được mở rộng.
Qua nhiều năm phát triển, Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam đã có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên (hơn 26% có trình độ đại học và sau đại học) đủ sức làm chủ các công nghệ tiên tiến của thế giới trong thiết kế, xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống điện quy mô lớn. Nhiều công trình điện lớn, phức tạp, có quy mô tầm khu vực ngày nay đều do đội ngũ cán bộ, kỹ sư, công nhân trong nước thiết kế và thi công như công trình đường dây siêu cao áp 500 kV bắc - nam mạch 2, công trình thủy điện Sơn La, v.v... Ðào tạo và phát triển nguồn nhân lực đủ để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ là vấn đề mà tập đoàn hết sức quan tâm và dành kinh phí thích đáng. Tập đoàn hiện có một trường đại học và ba trường cao đẳng, thực hiện đào tạo nhiều ngành nghề cho tập đoàn và cho xã hội. Tập đoàn cũng đã gửi nhiều sinh viên sang các nước tiên tiến như Nga, Mỹ, Anh, Pháp, v.v. học tập theo chương trình kỹ sư tài năng nhằm chuẩn bị cho tương lai trong đó trọng tâm là chương trình đào tạo nhân lực cho nhà máy điện hạt nhân vừa được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư.
Chia sẻ trách nhiệm với cộng đồng
Bên cạnh nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam luôn coi việc tham gia các chương trình hỗ trợ cộng đồng là nhiệm vụ chính trị xã hội quan trọng của tập đoàn và các đơn vị, qua đó khẳng định vai trò, vị trí của tập đoàn kinh tế nhà nước trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam đối với cộng đồng.
Từ năm 1995 đến nay, tập đoàn đã đóng góp hàng trăm tỷ đồng vào các quỹ tấm lòng vàng, quỹ xóa đói, giảm nghèo, quỹ giúp trẻ em nghèo vượt khó, khắc phục hậu quả lũ lụt... và đang phụng dưỡng suốt đời gần 300 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
Thực hiện Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo nhất nước thuộc 20 tỉnh, EVN đã tham gia hỗ trợ ba huyện nghèo của tỉnh Lai Châu là Phong Thổ, Than Uyên và Tân Uyên. Theo đó, trong giai đoạn 2009 - 2011, EVN sẽ hỗ trợ gần 280 tỷ đồng giúp các huyện này phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội một cách bền vững bằng các chương trình cụ thể như: Phát triển mở rộng lưới điện nông thôn, xóa nhà tạm, hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo, hỗ trợ về y tế cho học sinh THCS thuộc các hộ nghèo, hộ chính sách, hộ dân tộc đặc biệt. Hiện nay, Tập đoàn đã bàn giao hai nhà bán trú dân nuôi, các vật dụng học tập cho hai trường THCS và bảo hiểm y tế cho 1.500 học sinh trên địa bàn ba huyện.
Hướng tới mục tiêu phát triển bền vững
Những định hướng cơ bản về phát triển ngành điện đã nêu trong nhiều văn bản quan trọng của Ðảng và Nhà nước. Trên cơ sở những văn kiện này, Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam đã xây dựng chiến lược phát triển giai đoạn 2007-2015, định hướng đến năm 2025 với mục tiêu xây dựng tập đoàn trở thành tập đoàn kinh tế mạnh của đất nước, tiếp tục đáp ứng vai trò chủ đạo trong bảo đảm nhu cầu điện cho phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ đời sống nhân dân.
Trên con đường phát triển của Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam trong những năm sắp tới, nổi bật lên bốn thách thức lớn, đó là: Bảo đảm đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia; thực hiện thị trường hóa giá điện nhằm khuyến khích đầu tư cho phát triển điện, tách phần chính sách xã hội ra khỏi giá điện; hình thành và phát triển thị trường điện lực đồng bộ với thị trường năng lượng sơ cấp; tiếp tục chương trình đưa điện về nông thôn, miền núi nhằm đạt mục tiêu đến năm 2020 hầu hết số hộ dân nông thôn có điện và cải tạo lưới điện nông thôn sau tiếp nhận hiện đang ở trong tình trạng xuống cấp nặng nề.
Bốn thách thức nêu trên là những vấn đề có liên quan chặt chẽ và việc giải quyết những thách thức này vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ, vừa là những giải pháp căn bản để Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam có thể phát triển một cách bền vững.
Chặng đường 55 năm xây dựng, trưởng thành và phát triển của Ðiện lực Việt Nam là chặng đường đầy gian nan, thử thách, nhưng cũng đầy vinh quang. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc qua các thời kỳ, EVN đã vinh dự được Ðảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng, huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta, cùng nhiều danh hiệu Anh hùng, huân, huy chương cao quý cho các đơn vị, cá nhân thuộc EVN.
PHẠM LÊ THANH - Tổng Giám đốc Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam