Sự kiện

Về vùng "căn cứ của lòng dân”

Thứ hai, 18/2/2013 | 09:56 GMT+7
Vừa qua cái nắng hanh hao ở thành phố Đông Hà, qua những vòng cua tay o, chúng tôi đã ngấm không khí lạnh vùng cao. Sớm mai Khe Sanh đón chúng bằng những làn mưa nhè nhẹ của mùa xuân. Đã quá lâu tôi mới ghé lại chốn này. Chén trà nóng uống vội để chuyển tiếp cuộc hành trình.


Công nhân Điện lực Khe Sanh (Công ty Điện lực Quảng Trị) lắp đặt công tơ điện cho các hộ đồng bào dân Vân Kiều bản Cu Vơ. Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn

Mấy anh bên Điện lực dẫn đường cho chúng tôi, trong những câu chuyện kể cho đường đi ngắn lại, các anh kể về những người “đẻ đất, đẻ nước”, về vùng biên giới Việt – Lào… duy chỉ một câu chuyện hiếm khi đề cập đó là sự  đóng góp của anh em ngành điện cho ánh sáng ấm cúng của bản làng.

Điện sáng thôn bản

Từ  thị trấn Khe Sanh đi theo nhánh Tây Trường Sơn hơn 20 cây số đường đồi núi quanh co và phải mất hơn một tiếng đồng hồ chúng tôi mới tới bản Cu Vơ. Hèn gì từ tối hôm trước các anh dặn đi dặn lại rằng chúng tôi phải dậy sớm để 6 giờ sáng xuất phát từ Thành phố Đông Hà, mặc dù bây giờ đường lên Lao Bảo đã thênh thang lắm rồi, có thể chạy đạt tốc độ tối đa được quy định. Quả là đường đồi núi không tính được bằng cây số mà phải tính bằng thời gian đi.
Bản Cu Vơ trước mắt chúng tôi thật yên bình. Lũ trẻ hướng ánh mắt tò mò, rón rén nhìn khách lạ trên vách nhà sàn, vài em mạnh dạn chạy qua chạy lại trước mặt khách lạ và cười rõ tươi. Bản Cu Vơ chỉ có 55  hộ đều là dân tộc Vân Kiều, kinh tế mang tính tự cung tự cấp, trình độ dân trí thấp và phải thường xuyên đối mặt với bệnh sốt rét nên cuộc sống của người dân gặp còn khó khăn. Đường lên bản Cu Vơ mới được làm cách đây 3 năm. Lúc anh em ngành điện đưa điện về bản, đường làm chưa xong, phải đi bộ hơn 4 cây số để mang vác vật tư, vật liệu thi công.

Gần 20 năm trở lại đây, với chính sách di giãn dân, việc bố trí dân cư xen kẽ giữa người Kinh từ miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới với đồng bào Pa Ko, Vân Kiều sở tại đã tạo nên mối quan hệ gần gũi học hỏi lẫn nhau để cùng phát triển. Người Pa Ko, Vân Kiều đã dần từ bỏ tập quán làm nương rẫy theo kiểu nhờ trời và có điện, họ đã áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuât để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi.

Có điện, người Pa Ko, Vân Kiều đã từng bước xây dựng kinh tế nông nghiệp theo hướng hàng hóa, công việc tưới tiêu đã bớt nhọc nhằn và chế biến sắn, ngô và chuối  không còn là ước mơ như trước đây, cuộc sống của họ đã thực sự vững chãi trên vùng đất này.

Có điện, đời sống người dân không ngừng được cải thiện. Mặc dù bản Cu Vơ chỉ có 55 hộ gia đình nhưng nhờ có sự quan tâm đầu tư của nhà nước thông qua các chương trình dự án, đến nay hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống người dân nên về cơ bản đã được đầu tư xây dựng đầy đủ, như: hệ thống điện, nước sinh hoạt, kiên cố hóa tuyến đường lên bản, có trường THCS, trạm y tế, trường mầm non và nhà văn hóa…

Mặc dù chiến tranh đã lùi xa mấy chục năm nhưng nhiều dấu tích của vùng căn cứ cách mạng ở mảnh đất Hướng Hóa dường như không bị thời gian che lấp...ân tình của người dân nơi đây đối với cách mạng và những trang sử hào hùng gắn liền với mảnh đất này thì vẫn còn chảy mãi như dòng nước sông Thạch Hãn, Đăk Krông, Rào Quán, Sê Păng Hiêng, Sê Pôn. Đấy là lý do để những năm qua, lớp lớp những người con Quảng Trị vẫn tìm về đây trong mỗi chuyến đi về nguồn.

Bây giờ, Công ty điện lực Quảng Trị đã bán lẻ đến 100% hộ sử dụng điện, với 60 xã đã tiếp nhận lưới điện hạ áp, quản lý 1100 km đường dây hạ thế, 407 trạm biến áp, hơn 62.000 hộ dân trải dài khắp các vùng trên địa bàn toàn tỉnh, có nhiều địa bàn hiểm trở, khó khăn thuộc vùng sâu, vùng xa của tỉnh. Thậm chí, có xã cách xa Điện lực đến 80 km rất khó khăn trong quá trình đi lại cũng bán điện đến từng hộ. Sau khi tiếp nhận và thực hiện bán lẻ, chất lượng điện năng cơ bản đã được cải thiện, tổn thất điện năng đã giảm xuống rõ rệt, đặc biệt là sau khi hoàn thành thay thế công tơ đạt tiêu chuẩn, giá bán điện đến người dân giảm, giá bán điện ngành điện thu tăng lên (đối với Quảng Trị năm 2012 phần tăng giá khu vực tiếp nhận lũy kế 12 tháng tăng 608,756 đ/kWh. Tỉ lệ tổn thất khu vực tiếp nhận lũy kế 12 tháng giảm chỉ còn 7,68% ).

Những câu chuyện như thế này ở đồng bằng hay thành phố là chuyện bình thường, ít ai để ý nhưng ở các xã, thôn , bản ở Quảng Trị là những con số biết nói. Nói lên sự nỗ lực không ngừng của anh em ngành điện đã không quản khó khăn, gian khổ để đưa điện lên vùng cao, để đi hàng chục hàng trăm cây số đường đồi núi thu được mỗi tháng hơn chục nghìn đồng một hộ sử dụng.

Có điện, con em được học hành không phải thắp đèn dầu, được xem tivi, đài. Thế nhưng, được tận mắt chứng kiến cuộc sống nơi đây, có thể thấy những đổi thay ấy vẫn còn chưa tương xứng với một vùng đất giàu truyền thống cách mạng và những đóng góp của nhân dân trong kháng chiến. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo trong ở Hướng Hóa vẫn còn quá cao, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, đường vào nhiều làng chưa có. Chẳng vậy mà Giám đốc Điện lực Quảng Trị Phạm Sĩ Hùng vẫn cứ trăn trở về 62 thôn bản với 1.227 hộ (chiếm 1,14% số hộ có điện trên toàn tỉnh) ở vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn do địa hình hiểm trở, giao thông không thuận lợi, dân cư thưa thớt  chưa có điện.

 Có lẽ không ai khi trở lại vùng đất này mà  trong lòng không chất chứa nỗi niềm. Và ai cũng muốn được làm một điều gì, dù là nhỏ bé để tri ân với mảnh đất và những con người từng một thời bao bọc, nuôi dưỡng các cơ sở cách mạng, dẫu cho những giúp đỡ ấy chưa thể thay đổi được cuộc sống khó khăn của người dân Pa Ko, Vân Kiều.

Với tôi, được về mảnh đất này cùng những chứng nhân lịch sử, được chứng kiến những cái bắt tay rất chặt giữa những người bạn đang sinh sống và cống hiến cả cuộc đời cho mảnh đất này, tôi mới hiểu tại sao, suốt cuộc chiến trong chống Mỹ, dù kẻ địch đã tìm muôn phương ngàn kế hòng “nhổ” bỏ căn cứ cách mạng nhưng đều bất thành. Bởi một lẽ thật giản dị, Quảng Trị là “căn cứ của lòng dân”, căn cứ của những con người sống với nhau sâu nặng ân tình…

Đánh thức tiềm năng
 


Công nhân Điện lực Ngoc Ha 2 :Khe Sanh (Công ty Điện lực Quảng Trị) lắp đặt bóng đèn tiết kiệm điện cho các hộ đồng bào dân Vân Kiều bản Cu Vơ. Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
 
Hướng Hóa có diện tích 115.072 ha, dân số 67.000 người, với chủ yếu 3 dân tộc Pakô, Vân Kiều và Kinh. Đất đai chủ yếu là đất bazan núi lửa với diện tích khoảng 20.000 ha, có địa hình bán bình nguyên, đỉnh bằng, sườn thoải, dễ trồng trọt, một tặng vật của thiên nhiên cho cây cà phê Arabica. Các con sông Sê Păng Hiêng, Sê Pôn, Rào Quán vừa tạo “non nước xanh biếc”, vừa là nguồn nước tạo hương vị khó quên cho cà phê Khe Sanh.

Ngủ yên qua suốt thời chiến tranh dài, tiềm năng cà phê Khe Sanh mới được “đánh thức” và thực sự là một điểm nhấn của Khe Sanh hiện tại và của Khe Sanh tương lai. Mỗi năm, toàn huyện Hướng Hóa thu hoạch được hơn 6.000 tấn cà phê nhân và giá trị kinh tế lên tới cả chục triệu USD. Sự đổi thay nhờ cà phê thấy rõ trên khuôn mặt những người “một nắng, hai sương”.

Bước ngoặt đối với cây cà phê Khe Sanh là năm 2002 với việc nhà máy chế biến cà phê quả tươi đầu tiên đi vào hoạt động, công suất 15.000 tấn/năm do Tập đoàn Thái Hòa đầu tư. Tiếp đó, năm 2005, một nhà máy chế biến khô hiện đại công suất 30.000 tấn cà phê nhân/năm được Tập đoàn Thái Hòa đầu tư tại Khu TM Lao Bảo, tạo thành chuỗi sản xuất hoàn chỉnh từ cà phê quả tươi thành sản phẩm cà phê xuất khẩu, có thể đi thẳng ra thị trường thế giới. Cà phê Khe Sanh đã ghi danh trên bản đồ cà phê thế giới. Niên vụ 2009/2010, cà phê Khe sanh đã  xuất thẳng cho các nhà rang xay thế giới.

Bên ngoài cửa sổ quán cà phê mà chúng tôi ngồi, màu xám của những xác xe tăng, máy bay, tàn tích của chiến tranh đã chìm vào trong hoa trắng cà phê đầu xuân.

Dòng điện của tình đoàn kết dân tộc

Năm 1998 thực hiện các hiệp định về hợp tác trao đổi năng lượng có tính chiến lược và lâu dài giữa hai Chính phủ Việt Nam-Lào, Tổng Công ty Điện lực miền Trung giao nhiệm vụ bán điện cho nước bạn Lào qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo (Quảng Trị)-Denesavanh (Sanvannakhet) cho Điện lực Khe Sanh (trực thuộc Công ty Điện lực Quảng Trị). Năm 2003, tại cửa khẩu La Lay giáp huyện Samuôi, Tà-ôi tỉnh Salavan-Lào, Công ty Điện lực Quảng Trị  triển khai điểm bán điện thứ hai cho nước bạn Lào.

Năm 1998, Điện lực Khe Sanh bán điện cho nước bạn Lào qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo bằng đường dây 35kV từ trạm 110kV Đông Hà với công suất trạm 4000 KVA, để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và cung cấp điện an toàn, ổn định, năm 2003, Công ty Điện lực Quảng Trị đã xây dựng trạm 110kV Lao Bảo và cấp điện từ trạm này; đồng thời nâng công suất trạm biến áp từ 6.300 KVA lên 10.000 KVA, không qua trạm trung gian.

Năm 2012, sản lượng điện tiêu thụ bình quân là 2,5 triệu kWh, nhưng do từ năm 2013, khu vực huyện Savannakhet đã được cấp điện từ một nhà máy thủy điện nhỏ khoảng 6MW nên sản lượng điện tiêu thụ tháng 1 chỉ còn khoảng 1.793.000 kWh. Sản lượng tiêu thụ điện tháng 1 từ cửa khẩu La Lay là 152.328 kWh.

Việc bán điện sang các tỉnh vùng biên giới chưa có điện của nước bạn Lào càng làm thắt chặt thêm tình đoàn kết gắn bó đồng bào giữa hai nước Việt-Lào, tạo nên sức mạnh cộng đồng để thực hiện tốt các mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội, giữ vững quốc phòng- an ninh ở vùng biên giới.

Tỉnh Quảng Trị và hai tỉnh Salavan, Savannakhet nằm yên bình trên dải biên giới Việt - Lào. Bao đời nay, người dân nơi đây luôn đùm bọc, yêu thương nhau. Trong suốt chuyến hành trình đến với những bản xa xôi được cấp điện, đến trạm biến áp bán điện sang nước bạn Lào sát biên giới Quảng Trị, chúng tôi nhận ra rằng những người thợ điện đã và đang toả sáng, sự gần gũi, luôn giúp đỡ thợ điện Lào đã gắn kết tình nghĩa người giai cấp công nhân hai nước. Điều này góp phần tích cực vào việc đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới ở vùng sâu vùng xa và làm cho thế trận lòng dân ngày càng được củng cố vững chắc nơi biên cương Tổ quốc.

 
Thanh Mai/Icon.com.vn