3G - Vận hội mới
Trước hết phải kể đến sự kiện “đình đám” trong “làng” viễn thông khi liên danh EVNTelecom và HaNoiTelecom chính thức được cấp giấy phép dịch vụ 3G tháng 4/2009, mở ra vận hội mới trong kinh doanh viễn thông điện lực, tạo sân chơi sòng phẳng giữa các nhà khai thác dịch vụ. Trên cơ sở đó, việc triển khai mạng 3G để đầu năm 2010 đưa vào kinh doanh theo cam kết với Bộ Thông tin và Truyền thông là trọng tâm của công tác đầu tư xây dựng năm 2009 của EVNTelecom. Dịch vụ dự kiến sẽ được triển khai trên phạm vi toàn quốc, trước hết phủ sóng tại những nơi có sẵn cơ sở hạ tầng (hệ thống truyền dẫn, CDMA 450, Internet, NGN), có hệ thống cáp quang điện lực, hạ tầng về nhà xưởng để xây lắp thiết bị. Mặt khác, việc nâng cấp, sửa sang các cửa hàng đại lý hiện có và mở rộng các cửa hàng mới đảm bảo đạt 5.000 cửa hàng đại lý và hàng nghìn điểm bán hàng sẽ được quan tâm đầu tư hơn nữa để nâng cao thương hiệu EVNTelecom và chuẩn bị cho phát triển dịch vụ 3G. Mô hình kinh doanh dịch vụ 3G chủ yếu theo kênh phân phối. EVNTelecom trực tiếp quản lý hệ thống tổng đại lý trong và ngoài ngành thông qua các cửa hàng trực thuộc của EVNTelecom hoặc điện lực, thực hiện đầy đủ các chức năng giao dịch, cung cấp dịch vụ, thu cước và chăm sóc khách hàng… Bên cạnh công tác phát triển 3G, còn có những nhiệm vụ không kém phần quan trọng trong năm 2009 như giữ được khách hàng CDMA hiện có và phát triển tăng thêm khách hàng mới; đẩy mạnh phát triển các dịch vụ viễn thông công cộng có lợi thế của Tập đoàn; huy động vốn và hoàn thành công tác đầu tư xây dựng…
Rút kinh nghiệm từ những tồn tại
Thực tế cho thấy, năm 2008, lực lượng kinh doanh viễn thông từ EVNTelecom đến các nhánh tại các điện lực mặc dù đã có nhiều tiến bộ, nhưng vẫn chưa chuyên nghiệp trong cả phương thức kinh doanh lẫn chăm sóc khách hàng dẫn đến tỷ lệ thuê bao rời mạng, thuê bao không phát sinh cước tăng. Vì vậy, doanh thu cước phát sinh tăng không tương ứng với tốc độ phát triển thuê bao. Ngoài ra, dịch vụ giá trị gia tăng chậm triển khai và EVNTelecom còn thiếu năng động trong việc phối hợp với các công ty kinh doanh dịch vụ gia tăng bên ngoài nên doanh thu phát sinh từ các dịch vụ GTGT rất thấp. Số lượng các điểm cung cấp dịch vụ trên toàn quốc còn ít. Hệ thống phân phối thẻ cào còn thưa thớt, không thuận tiện đã làm ảnh hưởng lớn đến tăng doanh thu bán thẻ cào. Mặt khác, công tác giải quyết khiếu nại của EVNTelecom còn chậm, phần mềm tính cước còn sai sót. Hiện nay EVNTelecom vẫn chưa hình thành kênh giải quyết khiếu nại online nên công tác giải quyết khiếu nại vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, ảnh hưởng đến công tác xử lý thu nợ cước. Mạng lưới bảo hành thiết bị đầu cuối các công ty điện lực, điện lực mỏng nên chương trình bảo hành miễn phí cho các thuê bao trên toàn mạng triển khai chậm…
Rút kinh nghiệm từ những tồn tại, năm 2009, EVNTelecom chủ trương đẩy mạnh công tác chăm sóc khách hàng thông qua hình thức bảo trì, bảo hành máy, tặng pin và quà cho khách hàng. Các điện lực, công ty điện lực tổ chức các tổ sửa chữa thiết bị đầu cuối lưu động để sửa chữa tại nhà cho khách hàng; xem xét đưa ra chương trình thay máy cho các khách hàng có nguyện vọng sử dụng dịch vụ nhưng thiết bị đầu cuối bị hỏng. EVNTelecom cũng đồng thời tổ chức đào tạo, đào tạo lại cho đội ngũ kỹ thuật của các công ty điện lực, điện lực tỉnh sửa chữa TBĐC; xây dựng kế hoạch truyền thông hiệu quả hơn, tập trung, tăng cường công tác quảng cáo trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Vấn đề mấu chốt trong công tác kinh doanh viễn thông là phải luôn luôn nâng cao chất lượng mạng. Vì vậy, EVNTelecom cần thường xuyên tối ưu hoá và kiểm tra chất lượng mạng, đầu tư vào các khu vực có chất lượng mạng kém và các khu vực có tốc độ phát triển thuê bao mạnh hoặc có nhu cầu mở rộng vùng phủ sóng để phát triển thuê bao. Các điện lực chủ động đưa ra các khu vực, vị trí cần bổ sung, nâng cấp BTS để đảm bảo phát triển kinh doanh, đồng thời các đơn vị tăng cường công tác quản lý kỹ thuật nhằm giảm thiểu và ngăn chặn các sự cố; tổ chức các đội kỹ thuật trang bị đủ thiết bị, kết hợp đào tạo lý thuyết và thực hành tại hiện trường để thường xuyên kiểm tra, đánh giá và xử lý các sự cố của hệ thống; rà soát hệ thống mạng truyền dẫn thường xuyên để xây dựng kế hoạch dự phòng đảm bảo an toàn, đề phòng trường hợp gặp sự cố đứt cáp quang…
Theo ông Đào Văn Hưng – Chủ tịch HĐQT EVN: Để thực hiện tốt các mục tiêu năm 2009, các đơn vị cần có kế hoạch triển khai cụ thể, trong đó tập trung giải quyết có hiệu quả một số vấn đề trọng tâm: Đối với mạng CDMA (2G), cần quán triệt quan điểm tiếp tục duy trì, phát triển lên, đẩy mạnh khai thác những tiềm năng sẵn có. Những nơi cần bổ sung trạm BTS, các đơn vị cần tập trung đầu tư, đồng thời củng cố chất lượng dịch vụ nhằm giữ chân khách hàng, khắc phục tình trạng khách hàng rời mạng. Đối với mạng 3G, việc EVN được cấp phép khai thác mạng này là một thắng lợi quan trọng, mở ra nhiều triển vọng phát triển cho lĩnh vực viễn thông Điện lực. Vì vậy, cần đầu tư từng bước để phát triển kinh doanh trên cơ sở khai thác, tận dụng tối đa hạ tầng, bộ máy hiện có. Kế hoạch kinh doanh 3G phải được xây dựng chi tiết, cụ thể từ công tác đầu tư tới các hoạt động kinh doanh, dịch vụ. Bên cạnh đó, thời gian tới, cần củng cố bộ máy quản lý của EVNTelecom, các công ty điện lực, điện lực để xây dựng một đội hình quản lý viễn thông điện lực vững mạnh hơn, phát huy tốt hơn ý chí đoàn kết vươn lên. Thời gian tới, lãnh đạo Tập đoàn cũng sẽ tập trung chỉ đạo về vấn đề vốn để tháo gỡ khó khăn trong công tác đầu tư kinh doanh viễn thông.
- Tính đến 24/4/2009, tổng số thuê bao đã đạt được trên 3,76 triệu khách hàng. Dich vụ E-Com đạt trên 2,3 triệu khách hàng, trên 1 triệu thuê bao E-Mobile. Toàn mạng CDMA đã lắp đặt 2.878 trạm BTS, đưa vào vận hành 2.874 trạm.
- Mục tiêu năm 2009 đạt 4,6 triệu thuê bao