Sự kiện

Ẩn họa từ các công trình thủy điện

Thứ hai, 3/8/2009 | 14:52 GMT+7

Hàng trăm dự án xây dựng các công trình thủy điện đang được triển khai tại các tỉnh miền Trung- Tây Nguyên. Không thể phủ nhận tiềm năng to lớn về thủy điện ở khu vực này, tuy nhiên theo đó cũng đã nảy sinh không ít bất cập mà trước tiên, đó là việc gây tác động xấu đến tài nguyên môi trường.

Nở rộ các dự án thủy điện

Sông Sê San chảy từ Việt Nam sang Campuchia, dài 237 km (trên lãnh thổ Việt Nam). Sê San là một nhánh của sông Mê Kông và là hợp lưu của 2 dòng sông lớn: Đak Bla và Pô Cô. Sê San được mệnh danh là “dòng sông năng lượng” bởi khả năng “toả sáng” của nó là rất lớn (chỉ đứng sau sông Đà và sông Đồng Nai). Trên dòng sông này thuộc 2 tỉnh Gia Lai và Kon Tum, 6 công trình thủy điện lớn đã và đang được triển khai thi công với tổng công suất 1.768 MW, tổng sản lượng điện trung bình đạt 8.385 triệu Kwh/năm.

 

 

Cửa nhận nước dẫn vào đường hầm công trình thủy điện Đak Đoa. Ảnh: Tiến Thành

Bên cạnh “dòng sông năng lượng” Sê San thì hàng loạt các con sông lớn bé khác trên địa bàn cũng được khai thác triệt để. Đak Nông là tỉnh được xem là có tiềm năng lớn về thủy điện với kế hoạch từ năm 2004 đến năm 2010, tỉnh này sẽ dự định xây dựng 64 công trình thủy điện lớn nhỏ…

Công bằng mà nói, từ khi một số công trình thủy điện hoàn thành và đưa vào sử dụng, bộ mặt nông thôn đã đổi thay rõ rệt. Điện đã về đến tận các buôn làng xa xôi. Có điện, đời sống của người dân, đặc biệt là khu vực vùng sâu, vùng xa được cải thiện đáng kể; điện cũng đã phần nào “gánh” bớt sự nặng nhọc, vất vả cho nông dân. Tuy nhiên, “chiến dịch” làm thủy điện cũng đang dần hé lộ nhiều điều đáng quan ngại.

Môi trường bị ảnh hưởng

Khu vực Tây Nguyên hiện có hàng trăm dự án thủy điện lớn nhỏ đang được triển khai. Chưa khi nào, “phong trào” làm thủy điện lại “nở rộ” như lúc này. Tất cả các dòng sông đều được khai thác hết công suất của nó; tất cả các dòng sông đều được “xí phần”, đều có “chủ nhân” của nó. Doanh nghiệp lớn thì “xí phần” sông lớn, doanh nghiệp nhỏ thì “xí phần” sông nhỏ. Điều đáng nói là ngoài các đơn vị có chuyên ngành làm thủy điện, có đủ vốn, nhân lực và kinh nghiệm thì bên cạnh đó, “miếng bánh thủy điện” còn được chia cho rất nhiều các doanh nghiệp khác. Có những doanh nghiệp chưa một ngày làm thủy điện, những doanh nghiệp chỉ chế biến đồ gỗ, khai thác đá… cũng được chia “miếng bánh” này. Và, hệ lụy bắt đầu từ đây.

 

Phát triển hệ thống thủy điện là chủ trương lớn và hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên làm thủy điện như thế nào để không gây “tác dụng phụ” đến môi trường, đến tài nguyên rừng lại là bài toán khó đang cần lời giải. 
Ai cũng biết làm thủy điện là phải chặn dòng. Theo đó, diện tích đất và rừng bị “nhấn chìm” trong hồ chứa là hoàn toàn không nhỏ, đó là chưa kể đến các công trình liên quan như đập dâng, nhà máy, mở đường xuyên rừng vào tận chân công trình… Công trình thủy điện Sê San 4 nằm trên phần đất của huyện Ia Grai và huyện Sa Thầy (Kon Tum). Đây là công trình lớn thứ hai trên 6 bậc thang của sông Sê San (sau thủy điện Ia Ly), với công suất 360 MW, điện lượng trung bình năm là1.402 triệu Kwh, khởi công tháng 1-2005 và dự kiến hoàn thành vào năm 2010. Chỉ tính riêng 2 xã là Ia O và Ia Khai của huyện Ia Grai, Sê San 4 đã lấy đi 400 ha đất sản xuất ở đây. Để giải quyết đất sản xuất cho các hộ ở 2 xã này, Công ty 75 và Công ty 715 (Tổng Công ty 15) đã phải bàn giao 400 ha cao su đang thời kỳ “huy hoàng” về cho địa phương. Tuy nhiên, việc đồng bào chưa quen làm cao su (vốn đòi hỏi kỹ thuật cao) liệu có giữ nổi vườn cây, chưa kể đến việc mua bán, chuyển nhượng vườn cây để rồi cuối cùng lại thiếu đất sản xuất? 

Bên cạnh việc mất đất, mất rừng cho các công trình thủy điện thì vấn đề môi trường cũng được quan tâm đặc biệt. Bản chất của thủy điện là có tác động rất lớn đến tự nhiên, đến môi trường vì làm thủy điện phải chặn dòng, làm thay đổi dòng chảy. Theo đó, nó làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc sản xuất nông nghiệp. Điều này đã được kiểm chứng trong thời gian qua ở các tỉnh Tây Nguyên.

Một điều nữa cũng được nhiều người quan tâm là việc phát triển hệ thống thủy điện nhỏ. Công trình thủy điện nhỏ thường được xây dựng trên các dòng sông nhỏ, suối, về mùa khô thiếu nước nên phải ngừng hoạt động, trong khi nhu cầu sử dụng điện lớn nhất trong năm lại vào mùa khô. Vậy nên những công trình này liệu có đáp ứng được nhu cầu dùng điện của nhân dân trong mùa cao điểm?

Theo: Báo ĐT Gia Lai