Con đường từ Trung tâm thị trấn đến thôn Nam Hà, xã Đồng Tiến được đổ bê-tông vừa đủ độ cứng để đi lại. Anh Hoàng Văn Năng- Phó phòng kỹ thuật Ban Quản lý Dự án đưa điện lưới ra huyện đảo Cô Tô nói, những con đường liên thôn ở Cô Tô được thi công bởi các lực lượng lao động là các hộ dân trong thôn, những đoàn viên, thanh niên, lực lượng vũ trang, hội phụ nữ, hội nông dân. Vài tháng trước đây, chỗ này là quả núi nằm giữa hai thôn, nếu muốn đi qua, sẽ phải đi vòng đường khác xa hơn hoặc trèo qua núi. Từ khi có chủ trương làm đường giao thông, nhiều gia đình đã tự nguyện hiến hàng trăm mét vuông đất để làm đường giao thông.
Đường nối liên hai thôn Hải Tiến và Nam Hà vốn là một con đường đất chỉ dài hơn 1 km, địa hình phức tạp, chạy vòng vèo qua chân núi, lại bị chắn bởi rừng rậm, nhưng lại là con đường quan trọng để phát triển du lịch cho huyện đảo. Vì vậy, Huyện cũng chủ động kêu gọi các nguồn tài trợ từ bên ngoài, sử dụng có hiệu quả số nguyên vật liệu được tài trợ từ quỹ Chung sức xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Ninh, sau gần bốn tháng lao động khẩn trương với gần 2.000 công lao động, con đường liên thôn Hải Tiến - Nam Hà trị giá hơn 10 tỷ đồng đã được hoàn thành.
Trạm cắt trên đảo Cô Tô đã được đấu nối với cáp ngầm nối với đất liền. Ảnh: Ngọc Hà
Là một trong những huyện đảo lớn nhất của Việt Nam, nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Ninh, cách thành phố Hạ Long 110 hải lý về phía Đông và cách thị trấn huyện Vân Đồn 50 hải lý. Do cách xa bờ và chưa có lưới điện quốc gia nên nguồn cấp điện chủ yếu của huyện đảo là nguồn điện diesel. Do giá điện diesel rất cao và nhiều khó khăn khác nên khả năng cấp điện từ nguồn này rất hạn chế, chỉ đáp ứng một phần nhu cầu điện sinh hoạt, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng cho huyện đảo. Vì vậy, trong nhiều năm, các bộ ngành liên quan đã nghiên cứu để tìm ra giải pháp công nghệ hợp lý để điện khí hoá huyện đảo trên cơ sở khai thác tài nguyên năng lượng thiên nhiên, theo đó, giao nhiệm vụ cho Viện Khoa học năng lượng thực hiện đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học lập quy hoạch tổng thể cung cấp năng lượng bền vững phục vụ phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng cho huyện đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh”. Đề tài thực hiện trong hai năm 2007-2009. Do sử dụng nguồn năng lượng mặt trời làm nguồn cấp điện cho toàn huyện đảo thì nguồn điện này có giá thành tương đối cao. Qua nhiều lần thử nghiệm các phương án sản xuất điện từ gió, sóng biển, mặt trời... đều không thành công, việc xây dựng nhà máy điện ở đây cũng không khả thi, nên người dân huyện đảo Cô Tô vẫn phải cứ quanh quẩn với chiếc máy phát điện.
Anh Bùi Đức Chinh cùng gia đình ra đảo làm kinh tế mới từ năm 1979 và là một trong những người có thâm niên trên đảo nói, khoảng 5 năm trở về trước, ở Cô Tô, điều kiện giao thông đi lại rất khó khăn, mỗi ngày chỉ có một chuyến tàu ra đảo, nhà hàng khách sạn cũng không có… Cả huyện đảo chỉ có 1 nhà khách của UBND huyện với hơn chục phòng, khách ra đảo công tác đều nghỉ tại đó. Buổi tối, các ngả đường trung tâm thị trấn vắng hoe, rất ít người qua lại, đặc biệt là những dịp cuối tuần, khi một số lượng lớn cán bộ, viên chức của huyện có gia đình ở Vân Đồn thường về nhà, huyện đảo đã vắng lại càng thêm vắng. Năm 1987, lần đầu tiên người dân huyện đảo Cô Tô nhìn thấy ánh sáng điện trong ngôi nhà của mình, nhưng không phải từ điện lưới quốc gia mà từ chiếc máy phát điện chạy dầu do các hộ góp tiền tự mua, mỗi ngày chỉ phát từ 18 giờ đến 21 giờ hàng ngày. Do giá thành phát điện cao nên người dân chỉ dám dùng một ngọn đèn chiếu sáng, nhà nào sang thì có thêm chiếc tivi mà đã phải trả mỗi tháng 200 nghìn đồng tiền dầu. Mấy năm gần đây, Nhà nước hỗ trợ tiền điện 8.000 đồng/hộ/tháng, mà gia đình anh thì vẫn chỉ sử dụng bóng đèn chiếu sáng và chiếc ti vi, sản lượng điện tiêu thụ chỉ từ 17-18kWh nên gia đình anh không phải trả tiền điện. Đầu năm 2012, huyện Cô Tô đã trang bị, nâng cấp hệ thống máy phát, tăng giờ điện từ 12 lên 23 giờ mỗi ngày. Người dân đảo Cô Tô đã được dùng điện cả ban đêm đã là sự thay đổi lớn rồi. Bây giờ lại có điện lưới quốc gia bằng đường dây cáp to bằng cổ tay ngầm dưới biển thì chắc chắn người dân đảo Cô Tô sẽ có nhiều cơ hội làm giàu.
Kỳ vọng của người dân đảo Cô Tô không phải là không có cơ sở, bởi vài nằm gần đây, cùng với sự thay da đổi thịt của hòn đảo tiền tiêu này, đời sống của người dân cũng được cải thiện nâng cao rõ rệt. Thị trấn Cô Tô vắng lặng ngày nào giờ nhộn nhịp, đông vui hơn, nhà ở của người dân mọc lên san sát, thỉnh thoảng lại xuất hiện những nhà nghỉ khang trang được xây dựng trên đảo để đón khách du lịch. Khi dự án cáp ngầm kéo điện lưới từ đất liền ra đảo hoàn thành, Cô Tô sẽ không còn nỗi lo thiếu điện. Giao thông ra đảo cũng đã thuận tiện hơn nhiều, nhất là khi tàu cao tốc Vân Đồn - Cô Tô đi vào hoạt động, rút ngắn thời gian ra Cô Tô chỉ còn từ 1,5-2 tiếng đồng hồ (trước đây là khoảng 3 tiếng). Nếu cách đây 1 năm chỉ có 1 chiếc tàu cao tốc chạy ra đảo thì bây giờ đã có thêm nhiều doanh nghiệp đầu tư, trang bị thêm tàu cao tốc, hiện có 4 chiếc chạy tuyến Vân Đồn - Cô Tô. Giao thông thuận lợi đã rút gần khoảng cách giữa Cô Tô và đất liền. Không chỉ trên biển, phương tiện giao thông trên bờ cũng đã được một số doanh nghiệp đầu tư như xe taxi, xe điện đưa đón, phục vụ người dân và du khách di chuyển quanh đảo. Hồ chứa nước ngọt được xây dựng và hoàn thành từ tháng 7 năm 2011 và hồ chứa nước thứ 2 với dung tích 170.000m3 cũng đã được hoàn thành vào đầu năm, nên 100% hộ dân trên đảo đã được sử dụng nguồn nước sạch sinh hoạt và phục vụ khách du lịch.
Có mặt trên đảo vào những ngày đầu tháng 10, khi những con sóng Bắc đang rình rập ngoài khơi, chúng tôi cảm nhận được Cô Tô không còn xa lạ trên bản đồ du lịch Việt Nam. Theo báo cáo, năm 2012, Cô Tô đón 35.000 lượt khách, tăng gấp 4 lần năm 2011 và gấp 10 lần so với năm 2010. Từ đầu năm đến nay, Cô Tô đón khoảng gần 30.000 lượt khách, tăng 42% so với cùng kỳ năm 2012. Dự kiến đến hết năm 2013, Cô Tô đón khoảng 60.000 lượt khách, có nghĩa là mỗi người dân Cô Tô đón khoảng 10 lượt khách. Đây là một con số đầy ấn tượng với một hòn đảo xa xôi, dân số chưa đầy 6.000 người.
Nếu như trước đây, sự nghiệp giáo dục ở Cô Tô vô cùng khó khăn do thiếu trường, thiếu lớp, thiếu giáo viên, tình trạng học sinh bỏ học để đi biển diễn ra phổ biến thì đến nay, hệ thống trường, lớp đã khang trang. Toàn huyện có mười trường học ở các cấp học, đã có 7/10 trường đạt chuẩn quốc gia, phấn đấu đến hết năm nay, 100% số trường đạt chuẩn. Ðẩy mạnh việc xây dựng xã hội học tập, huyện đã thực hiện các cơ chế hỗ trợ cán bộ, học sinh, nhân dân tham gia học tập. Cô Tô là huyện đầu tiên thực hiện hỗ trợ tiền ăn cho trẻ mầm non trước khi tỉnh ban hành cơ chế hỗ trợ. Huyện đã cân đối nguồn ngân sách, hỗ trợ 80% học phí cho cán bộ, công chức, viên chức, học sinh và nhân dân tham gia các lớp học ngoại ngữ, tin học, học nghề tổ chức tại huyện. Nhằm chuẩn hóa đội ngũ cán bộ và đào tạo lớp cán bộ kế cận, huyện cũng đã tổ chức nhiều lớp học vào buổi tối như lớp trung cấp lý luận, ngoại ngữ tiếng Anh, tiếng Trung, trung cấp công nghệ thông tin... Vào ngày thứ bảy, chủ nhật hằng tuần, có khoảng 50 cán bộ các phòng, ban của xã, thị trấn, huyện vào đất liền để học đại học, văn bằng 2, cao học,…
Anh Hoàng Văn Năng cho biết, trong việc triển khai Dự án, gói thầu số 8, thi công xây dựng 23km đường dây cáp ngầm 22kV xuyên biển và gói thầu số 11, xây dựng đường dây 110kV từ Đài Chuối đến Hòn Ghềnh (Cống Thần) là 2 gói thầu quan trọng nhất và có điều kiện thi công phức tạp nhất.
Để thực hiện việc kéo dây với 4 vị trí cột từ vị trí cột 61 đến vị trí cột 64, Công ty CP Xây lắp điện 1 đã dùng kinh khí cầu để kéo dây cáp mồi, rải căng đường dây tải điện và đã hoàn thành từ ngày 28-9.
Len lỏi trên chiếc xà lan quá chật chội với những cuộn dây cáp ngầm và thiết bị thi công, chúng tôi có mặt trên điểm thi công khi mét cáp cuối cùng được hạ xuống biển kể thúc khâu rải dây ngầm. Anh Ngô Minh Vương- kỹ sư nhà thầu thi công Thái Dương cho biết, quá trình 23km cáp ngầm xuyên biển sẽ sử dụng robot để chôn trực tiếp cáp ngầm dưới đáy biển và có các thiết bị hiện đại giám sát việc thi công dưới độ sâu 25m. Đây cũng là Dự án đầu tiên trong cả nước được thi công với công nghệ chôn ngầm cáp 22kV dưới đáy biển. Từ ngày 26-9, Liên danh nhà thầu Prysmian - Thái Dương đã hoàn thành việc rải cáp ngầm 22kV đoạn Bản Sen - Ba Mùn với chiều dài 2,359km. Đoạn Ba Mùn - Cô Tô là tuyến dài nhất của gói thầu với chiều dài 15,368km hoàn thành ngày 8-10 sẽ hoàn thành và tiếp tục triển khai rải cáp ngầm tuyến cuối cùng là Cô Tô-Thanh Lân với chiều dài 2,171km. Sau đó, khớp nối các hạng mục công trình của Dự án từ đường dây trên không tới đường dây cáp ngầm xuyên biển và đóng điện thử ra đảo Cô Tô trước ngày 15-10-2013.
Cùng chuyến tàu ra Cô Tô với chúng tôi còn có anh em bên Điện lực. Đồng phục bảo hộ lao động màu da cam của công nhân điện lực lần đầu tiên có mặt để chuẩn bị tiếp nhận lưới điện và triển khai công tác quản lý khách hàng. Ở phía Vân Đồn, Công ty Lưới điện cao thế Miền Bắc đã tiếp nhận và trực vận hành trạm 110kV Vân Đồn chờ đấu nối đường dây. Tất cả đã hoàn thành chờ ngày đóng điện.
Ðêm dần trôi. Phía vầng trăng đang nhô lên từ mặt nước. Biển bàng bạc một mầu trăng huyền diệu. Ðèn thuyền đánh cá nhấp nhánh như những vì sao trôi trên sóng. Bây giờ, ra đảo được đi trên một con tàu cánh ngầm hiện đại, mỗi giờ chạy hàng chục hải lý, mà đường vẫn cứ dài hun hút, vẫn cứ xa diệu vợi. Chợt nghĩ, ngày xưa, ông cha mình cũng với hải trình ấy, nhưng đi với chỉ những ghe bầu, những thuyền buồm bé nhỏ, cộng với kinh nghiệm đi biển mà vẫn ra đi giữ gìn bờ cõi với những hiểm họa khôn lường trên đại dương ẩn chứa vô cùng bất trắc.
Ngày mai, điện lưới đã đến được với Cô Tô. Ngư nghiệp, nông, lâm nghiệp ở Cô Tô cũng sẽ được phát triển. Diện tích đất trống đồi núi trọc, bãi trống sẽ được bao phủ màu xanh, diện tích phù hợp với sản xuất nông nghiệp được nhân dân khai hoang mở rộng, khoanh vùng, áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi gia súc gia cầm và đưa giống mới có năng suất cao vào canh tác cùng với hệ thống hồ đập, kênh mương tưới tiêu được xây dựng kiên cố hoá, phân bổ trên tất cả địa bàn, đã giúp nhân dân phát triển sản xuất, từng bước đảm bảo cung ứng lương thực, thực phẩm tại chỗ. Nhiều dự án công trình cấp quốc gia sẽ được triển khai như: Khu vực bảo tồn sinh học biển; Trung tâm dịch vụ hậu cần nghề cá Bắc vịnh Bắc bộ cùng với các dịch vụ tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải v.v.. phát triển, Cô Tô đã và đang thực sự thay đổi…như lời của Bác Hồ trong chuyến thăm cán bộ, bộ đội và nhân dân đảo Cô Tô: Thủ đô Hà Nội tuy cách xa các đảo nhưng Đảng và Chính phủ luôn luôn quan tâm đến đồng bào các đảo và mong đồng bào đoàn kết cố gắng và tiến bộ.