Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
Nghị quyết số 55 của Bộ Chính trị được giới chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng đánh giá cao, trong bối cảnh các Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia và Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia (QHĐ 8) đang được lên kế hoạch triển khai xây dựng. PV Nguyên Long có cuộc trao đổi với TS Đoàn Văn Bình - Viện trưởng Viện Khoa học năng lượng, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam về góc nhìn của ông về quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết 55 của Trung ương.
PV: Xin trân trọng cảm ơn TS Đoàn Văn Bình đã nhận lời tham gia trao đổi với chúng tôi về chủ đề này! Thưa ông, là một chuyên gia trong lĩnh vực năng lượng, xin được hỏi cảm xúc của ông khi Bộ Chính trị ban hành NQ 55 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 ?
TS Đoàn Văn Bình: Tôi nghĩ không chỉ riêng tôi mà các chuyên gia và tất cả cán bộ làm trong ngành năng lượng đều rất phấn khởi và đón nhận Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị. Cách đây 12 năm Bộ Chính trị cũng đã ra Nghị quyết số 18 ngày 25 tháng 10 năm 2007 - Khoá 10 - về Định hướng phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Khi ấy, trong bối cảnh Việt Nam đang còn là một nước xuất khẩu năng lượng. Nhưng như chúng ta đã biết từ năm 2015 Việt Nam đã trở thành một nước nhập khẩu năng lượng, và chúng ta phải chấp nhận các dòng chảy năng lượng theo quy luật của thị trường năng lượng thế giới.
Hiện nay chúng ta mới tiêu thụ năng lượng tính theo bình quân đầu người về điện là khoảng 2.200 kWh/người, trong khi bình quân của thế giới là khoảng 3.450 kWh/người, tức là chúng ta mới tiêu thụ bằng 65% của bình quân đầu người trên thế giới. Dự báo đến năm 2030 dân số Việt Nam sẽ tăng từ khoảng 96 triệu người hiện nay lên khoảng 104 triệu người, và quy mô nền kinh tế của chúng ta cũng sẽ tăng, do đó, nhu cầu về điện sẽ tăng hơn gấp đôi hiện nay - và đạt khoảng 550 - 600 tỷ kWh điện. Như vậy thì mặc dù trong thời gian vừa qua ngành năng lượng cũng đã đạt được những thành tựu rất đáng kể để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, nhưng chúng ta cũng đứng trước rất nhiều những thách thức trong tương lai. Và một số vấn đề của ngành điện gặp phải hiện tại theo chúng tôi là khá lớn, ví dụ như trong giai đoạn từ 2020 – 2024 được dự báo sẽ bị thiếu điện trầm trọng do nguyên nhân một số các nhà máy nguồn điện có công suất lớn bị chậm tiến độ cũng như một số các dự án truyền tải cũng đang gặp một số khó khăn… Trước yêu cầu bức bách cả trong ngắn hạn và trung hạn cũng như tương lai dài hạn ngành năng lượng phải nhập khẩu một lượng năng lượng sơ cấp rất lớn - thì chúng ta phải có một chiến lược hết sức toàn diện và cụ thể để đưa ngành năng lượng phát triển, đáp ứng được các yêu cầu về phát triển kinh tế, xã hội gắn với phát triển bền vững cho đất nước trong cả việc giải quyết các thách thức ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
PV: Với những thách thức mà ông vừa chỉ ra như vậy, theo ông thì Nghị quyết 55-NQ-TW được ban hành ở thời điểm này có ý nghĩa như thế nào?
TS Đoàn Văn Bình: Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị ban hành vào thời điểm này có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Thứ nhất, Nghị quyết đã kịp thời chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong thời gian vừa qua và chỉ rõ được các nguyên nhân của sự yếu kém đó, trong đó chủ yếu là các nguyên nhân khách quan. Như vừa rồi đã nói thì ngành năng lượng phải đối mặt với những thách thức rất lớn trong thời gian tới, trong đó, chúng ta phải giải quyết những tồn tại mà trong giai đoạn trước đã bộc lộ rõ. Cái thứ nhất là tính không đồng bộ của cả hệ thống pháp lý dẫn đến quá trình triển khai cũng như nhận thức của các bên tham gia trong quá trình phát triển ngành năng lượng. Thứ hai nữa là chúng ta phải thay đổi lại cơ cấu nguồn năng lượng sao cho hợp lý hơn để đáp ứng được các yêu cầu về cung cấp đủ năng lượng cho quốc gia, và phải đảm bảo được quá trình sản xuất và tiêu thụ năng lượng ngày càng sạch hơn, xanh hơn, bảo vệ môi trường và chống biến đổi khí hậu. Chúng ta phải đưa ngành năng lượng theo đúng quan điểm nhất quán của Đảng, đó là Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - thì ngành năng lượng phải nằm trong bối cảnh chung đó để phát triển thị trường năng lượng có định hướng xã hội chủ nghĩa. Đấy là những ý nghĩa rất quan trọng của Nghị quyết 55 ra đời trong thời điểm này.
Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
PV: Chắc hẳn ông đã nghiên cứu rất kỹ Nghị quyết 55 của Trung ương vừa ban hành. Xin được hỏi góc nhìn của ông về quan điểm chỉ đạo cũng như bước tiến mới trong Nghị quyết 55 của Trung ương (so với Nghị quyết 18 ban hành năm 2007)?
TS Đoàn Văn Bình: Với tư cách là người cũng làm trong ngành khoa học năng lượng thì chúng tôi thấy rằng các quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết 55 thể hiện rõ được 2 ý rất quan trọng, đó là là tính toàn diện và tính cụ thể.
Quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết 55 có 5 ý rất toàn diện và nói được định hướng cốt lõi cho phát triển ngành năng lượng trong tương lai. Đầu tiên là đảm bảo vững chắc an ninh năng lượng quốc gia - nó là nền tảng cho mọi sự phát triển tiếp theo. Thứ hai là phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ ba là phát triển đồng bộ và hợp lý đa dạng các loại hình năng lượng. Thứ tư là ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Và thứ năm là việc sử dụng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường được đưa lên trở thành quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội.
Trong quan điểm chỉ đạo này thể hiện được rõ, đáp ứng được được yêu cầu thực tiễn của nền kinh tế Việt Nam, yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam và nó mang tính thời đại. Tính thời đại ở đây được thể hiện ở việc gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và chống biến đổi khí hậu; Nó thể hiện ở ứng dụng những thành tựu của cuộc CNCM 4.0 trong tất cả các phân ngành và lĩnh vực năng lượng, đẩy mạnh chuyển đổi số trong ngành năng lượng để từng bước làm chủ công nghệ hiện đại, với sự tự chủ sản xuất được phần lớn các thiết bị năng lượng… thì chúng tôi thấy rằng các quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết 55 rất cụ thể nhưng vẫn khái quát được tầm nhìn và mang tính toàn diện sâu sắc.
PV: Vâng, thưa ông, Nghị quyết của Đảng là chủ trương, định hướng, là “kim chỉ nam” để hành động. Nhưng trong Nghị quyết cũng đã cụ thể hóa rất nhiều vấn đề, các yêu cầu khá cụ thể… Ông nhìn nhận như thế nào về những yêu cầu này?
TS Đoàn Văn Bình: Các ngành khác thì tôi không có nhiều thông tin nhưng trong lĩnh vực năng lượng thì tôi thấy rằng đây là một Nghị quyết lần đầu tiên vừa mang tính toàn diện, mang tính định hướng cho dài hạn và vừa đưa ra được các yêu cầu, các mục tiêu. Ở đây có 7 mục tiêu rất cụ thể và có 10 nhiệm vụ giải pháp cũng rất cụ thể và dẫn dắt cả ngành năng lượng cũng như các phân ngành năng lượng phát triển. Tính cụ thể trong Nghị quyết này nó giúp cho sự hiểu, nhận thức một cách thống nhất từ các cơ quan lập chính sách, ra chính sách cho đến các đơn vị, các doanh nghiệp thực hiện cũng như người dân và nền kinh tế. Nó tránh được việc có những cụm từ hay những thuật ngữ nói chung chung - dẫn đến việc - kể cả những người ra các chính sách hay các cơ quan quản lý cũng còn có những sự hiểu khác nhau, dẫn đến sự bất đồng bộ, thì Nghị quyết này đã giúp cho các cơ quan triển khai sau này khắc phục được sự hiểu biết khác nhau đó. Và chúng tôi hi vọng là đến quá trình xây dựng các cơ chế, chính sách, chiến lược, hoặc là các Quy hoạch thì có được sự hiểu biết, thống nhất và nhất quán từ khâu ban hành chính sách đến khâu tổ chức thực hiện.
PV: Vâng, thưa ông, Nghị quyết 55 nhấn mạnh việc “nâng cao nhận thức của các cấp uỷ đảng và cả hệ thống chính trị và nhân dân về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của ngành năng lượng. Các cấp ủy đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương cần xác định phát triển năng lượng quốc gia là nhiệm vụ quan trọng. Ông nhìn nhận như thế nào về yêu cầu này?
TS Đoàn Văn Bình: Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam thì không chỉ là dành riêng cho ngành năng lượng, vì chúng ta biết là ngành năng lượng cung cấp năng lượng cho nền kinh tế - giống như là chất dinh dưỡng cho cơ thể. Vì vậy cho nên nó liên quan đến tất cả, rất nhiều các bộ ngành và đến từng người dân doanh nghiệp khác nhau. Vì vậy nó mang tính chất bao trùm. Ở đây chúng tôi rất mừng và phải nói rất phấn khởi là trong Nghị quyết có nói đến các yêu cầu về tổ chức thực hiện - liên quan đến đặc biệt là các cấp ủy của các địa phương, các doanh nghiệp, các tổ chức chỉ đạo về việc thực hiện Nghị quyết này.
Tôi lấy ví dụ như trước đây thì chúng ta cũng có làm nhưng sự nhận thức sâu sắc về việc “nhúng” ngành năng lượng vào trong bối cảnh chung của nền kinh tế chưa được giải quyết một cách thấu đáo - thì trong Phần 3 của Mục nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu - đã đưa ra một điều mà chúng tôi thấy hết sức phấn khởi - đó là cơ cấu lại các ngành tiêu thụ năng lượng đặc biệt là khu vực đầu tư nước ngoài để giảm thiểu cường độ năng lượng. Ở đây nói lên rằng việc sử dụng hiệu quả năng lượng nó sẽ tác động qua lại, nó vừa là nguyên nhân nhưng nó cũng vừa là kết quả của việc cấu trúc lại, cơ cấu của nền kinh tế. Thế nghĩa là chúng ta có thể sử dụng và phát triển các ngành kinh tế mà sử dụng ít năng lượng, hiệu quả cao hơn nhưng vẫn mang về được thu nhập, lợi nhuận kinh tế cao - thay vì chúng ta phát triển các ngành tiêu tốn quá nhiều năng lượng, gây đến việc tiêu hao quá nhiều vào nguồn năng lượng sơ cấp cũng như ảnh hưởng đến môi trường sinh thái.
PV: Nghị quyết của Đảng đã được ban hành. Theo ông thì việc quan trọng mà Chính phủ và các bộ ngành cần làm là gì để NQ của Đảng đi vào cuộc sống - và việc triển khai được tuân thủ theo đúng tinh thần của NQ của TW, thưa ông?
TS Đoàn Văn Bình: Để triển khai thực hiện Nghị quyết này thì có rất nhiều công việc chúng ta cần phải làm, và như tinh thần quán triệt của Nghị quyết thì toàn bộ hệ thống chính trị phải vào cuộc. Chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một số các nhóm vấn đề chính cần phải thực hiện:
Công việc đầu tiên là chúng ta phải đồng bộ về thể chế, về các cơ sở pháp lý, từ việc đồng bộ các luật liên quan đến phát triển năng lượng và điện lực và các ngành liên quan cho đến việc xây dựng các Chiến lược phát triển ngành năng lượng hay Chiến lược phát triển ngành điện, rồi các phân ngành điện, ngành than, dầu khí… Tiếp theo là phải cụ thể hóa để cuối cùng triển khai thực thi đó là các bản quy hoạch như Quy hoạch phát triển tổng thể năng lượng quốc gia, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia phù hợp với tinh thần của Nghị quyết. Và đến cấp địa phương thì kết hợp phần Quy hoạch phát triển điện lực của các tỉnh, thành phố nằm trong Quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội của các tỉnh, thành phố cũng phải được triển khai theo tinh thần của Nghị quyết 55 của Trung ương. Ở đây nhấn mạnh một ý đã được đưa ra trong Nghị quyết là “phải xây dựng được cơ chế và khung pháp lý để đảm bảo cho việc tuân thủ các quy hoạch phát triển năng lượng quốc gia, xử lý nghiêm đối với các dự án đầu tư chậm triển khai và làm ảnh hưởng đến an ninh năng lượng quốc gia”.
Chúng ta đã biết là bài học trong thời gian vừa qua khi mà chúng ta làm quy hoạch đến khi triển khai thì gặp rất nhiều khó khăn và có những dự án phá vỡ các cam kết vì không huy động được đủ nguồn lực. Chúng ta tránh tình trạng trong Quy hoạch thì ghi vào dự án đến năm này sẽ đưa vào vận hành nhưng trên thực tế thì nó lại không đi vào vận hành được.
PV: Thưa ông cũng có những ý kiến cho rằng là Nghị quyết số 55 của Đảng có tầm nhìn đến năm 2045 - là một khoảng thời gian khá dài, tuy nhiên chưa nhắc đến một nguồn điện mà chúng ta đã nghiên cứu, và đã có ý định triển khai trong giai đoạn trước - đó là điện hạt nhân. Vậy dưới góc nhìn của ông thì vì sao Nghị quyết của Đảng lại không đề cập đến vấn đề điện hạt nhân?
TS Đoàn Văn Bình: Ở đây theo tôi nghĩ có ba lý do chính để chúng ta chưa đề cập đến điện hạt nhân trong Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị lần này.
Lý do thứ nhất, có ý nghĩa nhất là hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ năng lượng tái tạo và các công nghệ năng lượng khác thì điện hạt nhân ngày càng trở nên đắt đỏ so với các công nghệ năng lượng khác, và đối với Việt Nam thì càng đắt đỏ hơn. Bởi vì chúng ta phải nhập khẩu hầu hết các công đoạn, từ khâu thiết kế, sản xuất vật tư thiết bị, xây lắp và vận hành một nhà máy điện hạt nhân. Vì vậy cho nên giá thành về sản xuất điện hạt nhân ở Việt Nam đắt hơn nhiều so với ở những nước mà họ làm chủ được công nghệ, tính cạnh tranh về mặt kinh tế của điện hạt nhân nó không thể hiện được rõ trong cuộc đua giữa các nguồn năng lượng khác.
Thứ hai, chúng ta được biết là trên thế giới hiện nay nhiều nước đã và đang làm chậm lại quá trình phát triển điện hạt nhân. Vì vậy những tập đoàn lớn trong ngành công nghiệp điện hạt nhân cũng đang gặp rất nhiều khó khăn để duy trì hoạt động của mình, và không tập trung đầu tư nhiều về việc phát triển các công nghệ tiên tiến hơn. Và vì vậy khi chúng ta phụ thuộc quá nhiều vào các tập đoàn công nghiệp điện hạt nhân nước ngoài thì rủi ro rất là cao, cả trong quá trình chúng ta lắp đặt, vận hành và cần phải có bảo dưỡng hay là thay thế cũng như đảm bảo các an toàn về hạt nhân… thì đấy cũng là một cách thức rất là lớn.
Thứ ba nữa là chúng ta thấy rằng, nếu lựa chọn điện hạt nhân là một nguồn - khi đưa vào thì rất quan trọng, và vì vậy nó liên quan chặt chẽ đến đảm bảo an ninh quốc gia. Khi nó đã là ninh quốc gia thì chúng ta phải đầu tư và quản lý bằng nguồn ngân sách của Nhà nước, và nó yêu cầu một nguồn ngân sách rất là lớn. Và nếu phát triển điện hạt nhân thì là một sự lựa chọn rất là tốn kém. Trong khi đó chúng ta có những phương án khác - như thay thế bằng nhiệt điện khí chẳng hạn - mà thế giới đang rất phát triển, và các công nghệ của nó cũng ngày càng phát triển. Và tôi cho rằng, đấy cũng là một sự lựa chọn thay thế cho điện hạt nhân đối với Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu của thế kỷ 21 này rất là tốt.
Hay là chúng ta có thể phát triển mạnh mẽ năng lượng tái tạo, và trong tương lai dài hạn thì chúng ta có thể nhìn thấy nguồn năng lượng biển hay năng lượng mới như là hiđrô… Chúng ta có trên 3000 km bờ biển, và các công nghệ khai thác năng lượng biển ngày càng phát triển. Và đặc biệt ở đây chúng ta lưu ý đến điện gió ngoài khơi. Đấy cũng là nguồn phát triển rất tiềm năng của Việt Nam trong tương lai.
Trong Nghị quyết 55 tôi thấy cũng rất phấn khởi đó là đã đưa ra được cả đầu vào của ngành năng lượng là các nguồn sơ cấp và đầu ra là chúng ta sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, dư địa đấy cũng còn khá là lớn, và cơ cấu lại các ngành kinh tế sao cho sử dụng hiệu quả năng lượng hơn… thì tôi nghĩ rằng trong giai đoạn từ nay đến năm 2045, khi tích hợp các giải pháp này vào thì chúng ta vẫn chưa cần phải xem xét đến điện hạt nhân. Và như vậy, tránh đi cho đất nước một mối lo thường trực về an toàn và an ninh của điện hạt nhân.
PV: Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi!