Sự kiện

Điện hạt nhân Việt Nam- Còn đó những thách thức

Thứ sáu, 11/7/2008 | 14:37 GMT+7
Nhu cầu tiêu thụ điện trong tương lai của Việt Nam được dự báo sẽ tăng gấp nhiều lần so với hiện nay. Để đảm bảo nguồn cung cấp điện cho nền kinh tế phát triển vững chắc, Việt Nam có thể phát triển các nguồn cung cấp điện từ than, dầu, khí, thuỷ điện, hạt nhân, năng lượng mới. Trong đó, điện hạt nhân là một trong những phương án được chú ý, gây tranh luận nhiều nhất với các ý kiến trái ngược nhau.


Triển vọng sáng sủa

Sau sự cố Three Mile Island ở Mỹ (năm 1979) và đặc biệt thảm hoạ Chernobyl (Liên Xô cũ) năm 1986, đến đầu thế kỷ 21, triển vọng phát triển công nghiệp điện hạt nhân (ĐHN) đã quay trở lại.

Cho tới thời điểm hiện nay, trên thế giới có khoảng 440 lò đang hoạt động, 31 lò đang được xây dựng (năm 2007), nhiều lò đã có kế hoạch xây dựng. Bên cạnh đó, điều kiện chính trị, kỹ thuật công nghệ, kinh tế, môi trường trên thế giới đã và đang thay đổi theo xu hướng thuận lợi, giúp cho triển vọng phát triển ĐHN ở Việt Nam trở nên sáng sủa hơn.

ĐHN có giá thành rẻ hơn so với các nhà máy phát điện sử dụng nhiên liệu than, dầu hoặc khí. Nhiều nghiên cứu về giá thành sản xuất điện của Pháp, Phần Lan, Mỹ, Nhật Bản đều kết luận: Giá thành ĐHN thấp hơn giá thành điện sản xuất bằng khí, than hoặc dầu từ 10 - 20%, phụ thuộc vào các điều kiện xây dựng và vận hành, kể cả khi tính đến chi phí tháo dỡ, bảo hiểm và dự phòng cho xử lý chất thải. Đặc biệt, trong điều kiện giá nhiên liệu than, dầu và khí ngày càng tăng nhanh thì giá thành sản xuất ĐHN lại càng trở nên cạnh tranh hơn và sẽ là một sự lựa chọn kinh tế.

Nhà máy ĐHN đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu rất lớn (chiếm khoảng ba phần tư giá thành), nhưng chi phí vận hành lại rẻ. Khi xây dựng xong và đưa vào vận hành, nguyên liệu chủ yếu để nhà máy ĐHN hoạt động là các bó thanh nhiên liệu (thông thường là uranium). Kể từ lúc nạp, nhiên liệu sẽ trải qua quãng thời gian vài năm trong lò phản ứng.Giá thành thanh nhiên liệu lại tương đối ổn định. Mặc dù giá nhiên liệu uranium đã tăng nhanh trong năm 2007, nhưng điều đó ít ảnh hưởng tới giá thành sản xuất của các nhà máy ĐHN đang hoạt động. Hơn nữa, nguồn nhiên liệu uranium theo các số liệu đã khảo sát, đủ để đảm bảo cung ứng cho ngành công nghiệp hạt nhân trong thời gian dài. Đó là chưa kể việc sử dụng nhiên liệu hỗn hợp MOX (Oxít Uranium-Plutonium) và sự phát triển công nghệ lò nơtron nhanh (hay còn gọi là lò tái sinh) sẽ đem lại cơ hội sử dụng nhiên liệu là Thorium lên tới hàng nghìn năm. Điều đó đảm bảo nguồn cung cấp nhiên liệu ổn định và chắc chắn trong tương lai. Trong khi đó, giá nguyên liệu than, dầu và khí thì khó có thể dự đoán một cách chắc chắn khi kế hoạch phát triển công nghiệp điện và vận hành hệ thống điện cần phải tính đến 30-40 năm trong tương lai.

Nguồn khai thác nhiên liệu uranium cũng được phân bố đều trên thế giới, tại các nước với hệ thống kinh tế khác nhau như Úc, Canađa, Nam Phi, Kazakhstan, Braxin, Mỹ, Nga… Đây cũng là một yếu tố góp phần ổn định cho việc cung cấp nguyên liệu của ĐHN. Còn nguồn cung cấp dầu, khí lại chỉ tập trung vào một số nước và khả năng cạnh tranh nguồn cung cấp than, dầu và khí của Việt Nam bị hạn chế so với các nước có tiềm lực kinh tế lớn khác.

Vấn đề biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang được thế giới quan tâm cũng có vai trò làm tăng ưu thế cạnh tranh của ĐHN. Nhà máy ĐHN (thường được sử dụng để chạy ổn định ở nền phụ tải), có một lợi thế lớn là không phát thải khí CO2 - nguyên nhân chính gây biến đổi khí hậu toàn cầu. Với khả năng đánh thuế môi trường và hạn chế khí phát thải bắt buộc sẽ áp dụng cho các nguồn ô nhiễm môi trường như nhà máy phát điện chạy than, dầu, khí, trong tương lai, nhà máy ĐHN lại càng khẳng định được lợi thế của mình như một ngành công nghiệp xanh.

Còn đó những thách thức

Mặc dù đã được cải tiến bằng cách đơn giản và tiêu chuẩn hoá các thiết kế để giảm chi phí xây dựng, vận hành, sửa chữa, song xây dựng nhà máy ĐHN vẫn đòi hỏi một nguồn vốn rất lớn và thời gian xây dựng kéo dài với các công nghệ tiên tiến và phức tạp mà Việt Nam chưa nắm bắt được một cách chắc chắn. Với nguồn vốn đầu tư lớn tới hơn 2 tỷ USD cho một tổ máy phát điện 1000 MW, việc quản lý chuẩn bị đầu tư, xây dựng tốt, nắm chắc quy trình và kỹ thuật xây dựng, đào tạo nhân lực cho quản lý vận hành an toàn là những thách thức to lớn đối với Việt Nam.

Kinh nghiệm của các nước trong xây dựng và vận hành NM ĐHN cho thấy, với thiết kế kém chất lượng, thời gian xây dựng bị chậm trễ, sự lo lắng về vấn đề an toàn, giá thành của NM ĐHN sẽ có thể bị tăng cao lên rất nhiều so với dự kiến ban đầu. Sự hậu thuẫn và nhất quán về mặt chính trị, đường lối sẽ giảm tối đa được sự bất ổn, đảm bảo ổn định được giá thành trong quá trình chuẩn bị và xây dựng NM ĐHN.

Lựa chọn công nghệ phù hợp nhất cho Việt Nam cũng sẽ là một thách thức lớn cho những người có trách nhiệm đặt nền móng cho ngành công nghiệp nguyên tử. Bởi vì chi phí phê duyệt, xây dựng, vận hành và sửa chữa sẽ được giảm đáng kể cho các nhà máy tiếp theo. Xu hướng gần đây cho thấy lò nước nhẹ công suất lớn (bao gồm cả lò nước sôi và lò nước áp lực) chiếm ưu thế trong các dự án đang được xây dựng. Phát triển ĐHN đòi hỏi nhu cầu lớn về thiết bị và nhân lực. Do đó, Việt Nam cần tìm một hướng đi đúng trong việc lựa chọn công nghệ để có thể tranh thủ được sự hậu thuẫn tối đa về công nghệ và nhân lực. Điều này lại đặc biệt quan trọng nếu tính đến triển vọng xây dựng hàng loạt các nhà máy ĐHN tiếp theo để giảm chi phí.

Bên cạnh đó, vận hành và bảo dưỡng NM ĐHN an toàn trong một thời gian dài từ 40 - 60 năm chính là mối quan tâm lo lắng nhất của các nhà hoạch định chính sách và các nhà đầu tư. Một sai lầm nhỏ cũng có thể dẫn đến những hậu quả và thiệt hại to lớn. Không giống như các nhà máy điện khác, vấn đề an toàn ở đây bao gồm cả bảo vệ nhà máy chống lại mối đe doạ phá hoại từ bên ngoài (đe doạ gây thảm hoạ phóng xạ), bảo vệ nguyên liệu hạt nhân và đảm bảo có được nguồn cung cấp nhiên liệu tin cậy, ổn định. Sự hậu thuẫn và ủng hộ của các cường quốc, cũng như các nước trong khu vực là một yếu tố quan trọng đảm bảo an ninh lâu dài, ổn định.

Chất thải phóng xạ hiện là một vấn đề chưa có hướng giải quyết triệt để. Sau 3 năm sử dụng, các thanh nhiên liệu đã cháy được coi là chất thải hoạt độ cao. Thông thường, hiện tại tại nhiều nước, các bó thanh nhiên liệu đã cháy này được lưu giữ tại nhà máy (thời hạn có thể đến 50 năm) chờ đến khi được vận chuyển đến địa điểm cố định. Tuy nhiên, chưa nước nào có được một địa điểm ổn định lưu giữ chất phóng xạ cao này trong thời gian dài (1.000 - 100.000 năm), mà mới chỉ ở mức độ mô phỏng trên mô hình (Pháp), hoặc chuẩn bị xây dựng mặc dù gặp rất nhiều khó khăn và chống đối (núi Yucca, Mỹ). Các nghiên cứu về xử lý và quản lý chất thải hoạt độ cao đang được nhiều nước trên thế giới quan tâm đầu tư nghiên cứu. Hy vọng, với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, vấn đề này sẽ sớm có giải pháp tối ưu trong tương lai gần.

Quan điểm của chúng tôi là nếu được đánh giá phân tích đúng vai trò của mình, ĐHN sẽ có một triển vọng phát triển rất tốt ở Việt Nam. Tuy nhiên, cũng sẽ có những thách thức to lớn cần phải lường biết trước để có thể đặt nền móng vững chắc cho sự phát triển công nghiệp ĐHN ở Việt Nam.

Trong vòng 2 thập kỷ tới, Việt Nam dự kiến phải phát triển gấp 7-8 lần khả năng cung cấp điện hiện có để đảm bảo nhu cầu điện cho nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là phải xây dựng mới trên 60.000 MW với nhu cầu vốn đầu tư hàng trăm tỷ đô la Mỹ. Với một nhu cầu đầu tư lớn như vậy, việc tìm kiếm một nguồn cung cấp đảm bảo nền tảng cho hệ thống điện với giá thành rẻ và ổn định là điều quan trọng sống còn cho nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh ở Việt Nam.

Trên thế giới, hiện hình thành 3 liên minh cung cấp thiết bị lớn là Westinghouse-Toshiba (Mỹ), Areva (Pháp) - Mitshubishi (Nhật), General Electric – Hitachi.

Ngoài ra, Atomstroi của Nga cũng là nhà thầu có nhiều dự án đang xây dựng ở nước ngoài.

Sự đồng thuận của công chúng là một yếu tố quyết định sự thành công cho sự phát triển công nghiệp ĐHN. Kinh nghiệm của các nước (Mỹ, Philippines) cho thấy, sự phản đối của công chúng có thể làm kéo dài thời gian xây dựng và tăng chi phí xây dựng, thậm chí dẫn tới phá sản chủ đầu tư hoặc không thể đưa NMĐHN vào vận hành được.

Qua các cuộc triển lãm và thăm dò dư luận tại HN, TPHCM, Ninh Thuận, Phú Yên gần đây cho thấy: Tỷ lệ ủng hộ của dân chúng rất cao (90% thấy sự cần thiết của ĐHN, 47,7% coi ĐHN là có ích và an toàn, chỉ có 4,6% coi ĐHN là nguy hiểm).

Tuy nhiên, sự ủng hộ này đang có nguy cơ bị rò rỉ và giảm sút do thiếu sự tuyên truyền và thông tin phổ biến. Để nhận được sự đồng thuận của cộng đồng, ngành công nghiệp ĐHN cần phải chứng minh được ĐHN là rẻ, ít ô nhiễm, an toàn, tạo thu nhập và công ăn việc làm cho địa phương.

Theo TCĐL số 5/2008